Quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận. Liên hệ thực tiễn cách mạng Việt Nam
* Khái niệm thực tiễn:
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng thực tiễn là hoạt động nhận thức, hoạt động tinh thần. Các nhà tôn giáo cho hoạt động sáng tạo ra vũ trụ của những lực lượng siêu nhiên là thực tiễn. Có nhà triết học duy vật trước Mác cho rằng: hoạt động thực nghiệm khoa học là thực tiễn. Đây là quan niệm đúng nhưng chưa đầy đủ.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng: thực tiễn là một phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động vật chất - cảm tính có tính lịch sử xã hội của con người nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và xã hội. Do vậy, thực tiễn có ba đặc trưng sau:
- Thực tiễn không phải là toàn bộ hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất, chứ không phải là hoạt động tinh thần (hay còn gọi là hoạt động lý luận). Đó là những hoạt động mà con người phải sử dụng công cụ vật chất, lực lượng vật chất tác động vào các đối tượng vật chất để làm thay đổi chúng. Ví dụ hoạt động sản xuất ra của cải vật chất như xây nhà, đắp đê, trồng lúa,v.v…
- Thực tiễn là những hoạt động có tính lịch sử - xã hội. Nghĩa là hoạt động thực tiễn là hoạt động của con người, diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo người, và trải qua những giai đoạn lịch sử phát triển nhất định. Trình độ và hình thức của hoạt động thực tiễn có sự thay đổi qua các thời kỳ khác nhau của lịch sử xã hội.
- Thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm trực tiếp cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ con người tiến bộ. Đặc trưng này nói lên tính mục đích, tính tự giác của hoạt động thực tiễn. Trong hoạt động thực tiễn, con người phải sử dụng các phương tiện, công cụ vật chất để tác động và tự nhiên, xã hội nhằm cải tạo, biến đổi chúng cho phù hợp với mục đích, phục vụ cho nhu cầu của mình.
Thực tiễn có ba hình thức cơ bản gồm:
- Hình thức cơ bản đầu tiên của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất. Đây là những hoạt động sản xuất ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và trao đổi của con người, là hoạt động quyết định sự tồn tại và phát triển của XH loài người, thông qua đó con người ngày càng hoàn thiện.
- Hoạt động CT-XH, hoạt động cải tạo các quan hệ CT-XH. Đây là hoạt động của con người trong các lĩnh vực CT-XH nhằm cải tạo, biến đổi XH, phát triển các QHXH, hoàn thiện các thiết chế xã hội. Chẳng hạn như đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu tranh giai cấp, mít tinh, biểu tình ...Đây là hình thức hoạt động thực tiễn cao nhất.
- Hoạt động thực nghiệm khoa học (gồm KH tự nhiên và KH xã hội). Đây là hình thức hoạt động thực tiễn đặc biệt vì trong thực nghiệm khoa học, con người chủ động tạo ra những điều kiện nhân tạo để vận dụng thành tựu KHCN vào nhận thức và cải tạo thế giới. Vai trò của hình thức hoạt động này ngày càng quan trọng do sự phát triển của KHCN.
Ba hình thức thực tiễn này liên hệ, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó SXVC đóng vai trò quyết định, hai hình thức kia có ảnh hưởng quan trọng tới SXVC.
* Khái niệm lý luận:
Theo chủ nghĩa DVBC, lý luận là hệ thống những tri thức, được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối quan hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các SVHT trong thế giới và được biểu đạt bằng hệ thống, nguyên lý, quy luật, phạm trù. Lý luận là kết quả của quá trình phát triển cao của nhận thức, là trình độ cao của nhận thức.
Lý luận có 3 đặc trưng:
- Thứ nhất, lý luận có tính hệ thống, tính khái quát cao, tính lô gic chặt chẽ.
- Thứ hai, cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn. Lý luận là những tri thức được khái quát từ những tri thức kinh nghiệm. Không có trí thức kinh nghiệm thực tiễn thì không có cơ sở để khái quát thành lý luận.
- Thứ ba, lý luận xét về bản chất có thể phản ánh được bản chất SVHT. Lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nhờ đó nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của SVHT.
* MQH biện chứng giữa lý luận và thực tiễn:
* Giữa lý luận và thực tiễn có sự thống nhất biện chứng với nhau, bổ sung, thâm nhập, chuyển hóa cho nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong MQH với LL, TT quyết định LL. TT như thế nào thì LL phản ánh như thế đó. TT luôn vận động, biến đổi không ngừng vì vậy LL cũng phải biến đổi theo. Trình độ lý luận càng cao, nhận thức thực tiễn càng sâu sắc. Thực tiễn càng đa dạng phong phú càng làm cho lý luận phát triển. HCM: "Thống nhất giữa LL và TT là 1 nguyên tắc căn bản của CN Mác-Lê. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là LL suông. TT không có LL hướng dẫn thì thành TT mù quáng". LL không phản ánh hiện thực một cách thụ động mà có vai trò như kim chỉ nam vạch phương pháp hành động có hiệu quả nhất để đạt mục đích của TT.
* MQH BC giữa LL và TT thể hiện qua vai trò của thực tiễn đối với lý luận:
- Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức, lý luận. Thông qua và bằng hoạt động thực tiễn con người tác động vào sự vật, làm cho sự vật bộc lộ thuộc tính, tính chất, quy luật. Trên cơ sở đó, con người có hiểu biết về chúng. Nghĩa là thực tiễn cung cấp "vật liệu" cho nhận thức. Không có thực tiễn thì không thể có nhận thức -> việc đo đạt ruộng đất trong chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hi Lạp - La Mã cổ đại là cơ sở cho định lý Talét, Pitago... ra đời. Lý luận Mác - Lênin là sự khái quát thực tiễn CM lịch sử XH, là sự đúc kết những tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh vực cụ thể để xây dựng nên hệ thống lý luận KH hoàn chỉnh.
Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi nhận thức phải trả lời. Nói cách khác, thực tiễn là người đặt hàng cho nhận thức giải quyết. Trên cơ sở đó, nhận thức phát triển. Ví dụ: dịch cúm H5N1 -> nghiên cứu chế tạo vắc xin
Thực tiễn còn là nơi rèn luyện giác quan cho con người. Chẳng hạn, thông qua các hoạt động sản xuất, chiến đấu, sáng tạo nghệ thuật... những cơ quan cảm giác như thính giác, thị giác... được rèn luyện -> tạo cơ sở cho chủ thể nhận thức hiệu quả, đúng đắn hơn.
Thực tiễn còn là cơ sở chế tạo công cụ, máy móc cho con người nhận thức hiệu quả hơn như kính thiên văn, máy vi tính... đều được sản xuất, chế tạo trong sản xuất vật chất. Nhờ những công cụ máy móc này mà con người nhận thức sự vật chính xác, đúng đắn hơn. Trên cơ sở đó, thúc đẩy nhận thức phát triển.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Nhận thức của con người bị chi phối bởi nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại. ngay từ khi xuất hiện trên trái đất, con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh để tồn tại. Nghĩa là, nhận thức của con người đã bị chi phối bởi nhu cầu thực tiễn.
Những tri thức, kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng vào thực tiễn phục vụ con người. Nói khác đi, chính thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá giá trị của tri thức - kết quả của nhận thức.
Nếu nhận thức không vì thực tiễn mà vì cá nhân, vì chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa thành tích thì nhận thức sớm muộn sẽ mất phương hướng.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra sự đúng sai của nhận thức, lý luận. Thông qua thực tiễn, con người mới "vật chất hóa" được tri thức, "hiện thực hóa" được tư tưởng. Thông qua quá trình đó, con người có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý một cách biện chứng, nghĩa là nó vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn ở những giai đoạn lịch sử cụ thể là tiêu chuẩn khách quan duy nhất có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Tính tương đối thể hiện ở chỗ, bản thân thực tiễn luôn vận động, biến đổi, phát triển. Cho nên, khi thực tiễn đổi thay thì nhận thức cũng phải thay đổi cho phù hợp. Nghĩa là những tri thức đã đạt được trước đây, hiện nay vẫn phải được kiểm nghiệm thông qua thực tiễn.
Ví dụ: đường bay vàng
Vai trò của lý luận đối với thực tiễn:
Lý luận đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Nhờ những đặc trưng ưu trội so với tri thức kinh nghiệm mà lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động thực tiễn của con người. Lý luận khoa học, thông qua hoạt động thực tiễn của con người góp phần làm biến đổi thế giới khách quan và biến đổi chính thực tiễn.
Lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập hợp quần chúng để tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo quần chúng.
Lý luận đóng vai trò định hướng, dự báo cho hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn bớt mò mẫm, vòng vo, chủ động, tự giác hơn.
Dẫn chứng: HCM tiếp thu những nguyên lý phổ biến của CN Mác Lê để chỉ đạo cho thực tiễn phong trào CMVN
Phần 2: Ý nghĩa phương pháp luận
- Phải có quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm thực tiễn yêu cầu:
- Một là, nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người. Đường lối, chủ trương, CS của Đảng, PL của NN, Chính sách của địa phương của ngành chỉ đúng đắn, phù hợp khi nó đáp ứng được nhu cầu của TT, phù hợp với TT, xuất phát từ thực tiễn của địa phương, của ngành và đất nước.
- Hai là, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải gắn với hành -> Bám sát TT, hướng vào thực tiễn. Vận dụng LL vào CMVN, vào công tác cán bộ
- Ba là, phải chú trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện phát triển lý luận cũng như chủ trương, đường lối, chính sách. TT luôn vận động và biến đổi không ngừng vì vậy cần phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung và phát triển nhận thức nâng lên thành LL để LL ấy quay lại phục vụ cho TT. Việc tổng kết TT làm cho con người có thêm nhiều tri thức mới, bài học kinh nghiệm. Trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta phải luôn chú ý đến việc tổng kết thực tiễn để có những định hướng phù hợp với tình hình đất nước và thời đại -> Đẩy mạnh công tác nghiên cứu LL, tổng kết có hệ thống sự nghiệp XD và BV Tổ quốc, rút ra những kết luận đúng đắn.
- Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của lý luận. Phải luôn tôn trọng TT, căn cứ vào TT để kiểm tra tính đúng đắn của nhận thức lý luận cũng như đường lối, chủ trương, chính sách…Một đường lối, chủ trương đúng đắn hay sai lầm chỉ có thể nhận biết qua thực tiễn, vận dụng vào TT
- Trong hoạt động thực tiễn phải chủ động ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm (là khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa kinh nghiệm thực tiễn, đề cao vốn kinh nghiệm bản thân, coi thường, hạ thấp lý luận, không chịu nâng cao trình độ lý luận) và bệnh giáo điều (khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa lý luận, cường điệu vai trò của LL, coi thường và hạ thấp kinh nghiệm thực tiễn; hoặc vận dụng kinh nghiệm của người khác, ngành khác, địa phương khác, nước khác một cách rập khuôn máy móc, không tính đến điều kiện thực tiễn cụ thể của mình).
- Trong công tác, mỗi cán bộ phải gương mẫu thực hiện phương châm “nói đi đôi với làm” , tránh nói một đằng, làm một nẻo ; nói nhiều làm ít ; nói mà không làm...
Phần 3: Liên hệ thực tiễn cách mạng Việt Nam
- Những năm đầu thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã tìm hiểu, nghiên cứu sâu sắc truyền thống văn hóa dân tộc, học tập những tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt nghiên cứu thực tiễn của những cuộc cách mạng trong và ngoài nước, đúc kết thành những vấn đề lí luận cơ bản cho đường lối cách mạng Việt Nam. Người đã vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê nin, tập hợp được lực lượng, tổ chức đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc.
- Đảng và nhân dân ta tiếp tục vận dụng sáng tạo Lý luận của CN Mác Lênin và và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn vào cách mạng Việt Nam giành những thắng lợi vẻ vang, thống nhất hoàn toàn đất nước. Những đường lối chủ trương cơ bản đúng đắn của Đảng đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác đã khẳng định sự vận dụng biện chứng giữa lý luận và thực tiễn của Đảng ta.
- Sau khi đất nước thống nhất, cả nước tiến lên xây dựng CNXH bước đầu đạt những thành tựu. Tuy nhiên, trước thời kỳ đổi mới, trong quá trình đấu tranh cải tạo, xây dựng xã hội mới, chúng ta mắc phải những lệch lạc, sai lầm. Đôi khi chủ quan duy ý chí, rơi vào bệnh giáo điều, đề cao lý luận; lý luận không bám sát thực tiễn hoặc rập khuôn máy móc, giáo điều về con đường đi lên CNXH hoặc nóng vội đốt cháy giai đoạn một cách thiếu biện chứng. Do không nhận thức đúng đắn về con đường quá độ lên CNXH, về quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX nên đã dẫn đến những chỉ đạo sai lầm trong thực tiễn. Cụ thể, tiến hành cải tạo XHCN nóng vội, duy ý chí, áp dụng rập khuôn mô hình của các nước XHCN khác, vội vàng xóa bỏ một số thành phần KT (KTTB Tư nhân) trong khi nó đang tạo địa bàn cho sự phát triển của LLSX, dẫn đến LLSX bị lãng phí, nền kinh tế đất nước bị kìm hãm, chậm phát triển, đời sống XH gặp nhiều khó khăn, nhất là từ sau 1975 đến trước Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986. Đó còn là việc duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung bao cấp (chỉ phù hợp trong giai đoạn chiến tranh) trong khi thực tiễn không còn phù hợp nữa. Do đó hiện nay, nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN, trong đó KTNN là chủ đạo.
- Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, trước những vận động và biến đổi nhanh chóng của thế giới, trong thời đại toàn cầu hóa, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI trở đi, Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự chú trọng đến hiệu quả của hoạt động thực tiễn. Đảng ta đã tiến hành tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới, đúc kết thành lý luận (nhất là vấn đề con đường đi lên CNXH), tiếp tục đổi mới về nhận thức tư duy, nhất là tư duy kinh tế, gắn lý luận với thực tiễn, kịp thời nắm bắt xu thế của thời đại để xây dựng những đường lối, chủ trương đúng đắn để phát triển đất nước.
Đảng cần phải nắm vững và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển CN Mác Lê và TTHCM, không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức của mình để đủ sức giải quyết các vấn đề từ thực tiễn cách mạng đặt ra, đề ra đường lối đổi mới đúng đắn.
- Không ít cán bộ, đảng viên quá đề cao thực tiễn, xem nhẹ lý luận, sa vào chủ nghĩa kinh nghiệm, tự mãn, thiếu sáng tạo, chậm bắt nhịp cuộc sống và xu thế vận hành, phát triển chung của thời đại, đẩy đất nước đến nguy cơ tụt hậu. Để khắc phục bệnh kinh nghiệm và giáo điều cần phải coi trọng cả LL lẫn TT, đồng thời phải tăng cường nâng cao trình độ lý luận và trình độ hiểu biết của CB đảng viên, khả năng nắm bắt, tổng kết hoạt động thực tiễn.
HỎI VÀ ĐÁP