Sau đây là đáp án trả lời của câu hỏi: "Trình bày nội dung và bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng Cộng sản?"
Cũng như bất kỳ một tổ chức chính trị nào khác, sự tồn tại và phát triển của Đảng cộng sản cũng phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản. Đối với Đảng cộng sản, nguyên tắc sống còn, cơ bản nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hoà giữa hai mặt tập trung và dân chủ. Cả hai mặt tập trung và dân chủ tạo thành chỉnh thể thống nhất của một nguyên tắc, trong đó, dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung; còn tập trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện.
a. Tập trung dân chủ là tất yếu khách quan, nguyên tắc cơ bản của Đảng
Chế độ tập trung dân chủ dựa trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của phong trào vô sản. Trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình, giai cấp vô sản phải đương đầu với một kẻ thù có tổ chức, bộ máy nhà nước hùng mạnh là giai cấp tư sản. Muốn chiến thắng, giai cấp vô sản phải có ý thức tổ chức kỷ luật cao, đoàn kết thống nhất và phải thành lập chính đảng của mình. Mác, Ăng nghen và Lênin đã xây dựng, luận chứng và áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tất yếu trong xây dựng và hoạt động của đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để giải quyết đúng đắn những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng Đảng.Người chỉ rõ Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, do đó, nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của Đảng.
Như vậy, tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng Cộng sản, là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Đây cũng là nguyên tắc quan trọng nhất để chỉ đạo mọi hoạt động, tổ chức sinh hoạt nội bộ và phong cách làm việc của Đảng. Nguyên tắc này đảm bảo cho sự thống nhất ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh vô địch của một đảng cách mạng chân chính.
Tập trung dân chủ là thể hiện bản chất giai cấp công nhân của ĐCS. Nó có tác dụng phân biệt chính đảng của giai cấp công nhân, đảng cách mạng chân chính với các đảng phái khác. Có thể khẳng định, tập trung dân chủ là nguyên tắc có tính chuẩn mực, là thước đo tính đảng của đảng viên.
Phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ là phủ nhận ĐCS từ bản chất. Xoá bỏ nguyên tắc này là phá hoại sức mạnh của ĐCS từ gốc. Xoá bỏ nguyên tắc này tất sẽ sa vào bệnh đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, từ đó dẫn đến sự phân liệt trong Đảng, làm cho xã hội phân tâm, lòng người ly tán, rối loạn, mất ổn định chính trị. Kinh nghiệm của phong trào cộng sản quốc tế và hoạt động của Đảng ta cho thấy, chỉ có duy trì và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ thì Đảng mới không tan vỡ về tổ chức. Sự tan rã và sụp đổ của ĐCS Liên Xô và các ĐCS ở các nước Đông Âu đã chỉ rõ, phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ phải trả một giá rất đắt và là sai lầm không thể sửa chữa được.
b. Nội dung, bản chất của nguyên tắc TTDC
Trên cơ sở quán triệt nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng HCM về nguyên tắc tập trung dân chủ, rút kinh nghiệm từ những bài học gần đây của các đảng anh em và qua hoạt động thực tiễn, Đảng ta chỉ rõ, “ĐCS VN tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này được thể hiện cụ thể tại Điều 9, Điều lệ ĐCS VN thông qua ngày 22/4/2001 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
- Theo nguyên tắc này, cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là BCH Trung ương, ở mỗi cấp là BCH đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
- Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo các hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
- Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng đại hội đại biểu toàn quốc và BCH Trung ương.
- Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
- Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
Hiện nay một số người cho rằng chúng ta nên từ bỏ nguyên tắc này vì cho rằng nó sai lầm, quan liêu, độc đoán, mất dân chủ của một số người lãnh đạo ở một số nước và lợi dụng sự tan rã của các ĐCS. Song nguyên nhân của tình trạng đó là hiểu và thực hiện sai nguyên tắc này trên cơ sở chủ ngiã Mác-Lênin.
Bản chất (Mối quan hệ)
Như đã đề cập ở trên, nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hoà giữa hai mặt tập trung và dân chủ. Cả hai mặt tập trung và dân chủ tạo thành chỉnh thể thống nhất của một nguyên tắc, trong đó, dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung; còn tập trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện.
Nguyên tắc tắc trung dân chủ trong ĐCS nói chung và Đảng ta nói riêng bao giờ cũng là sự kết hợp hài hoà giữa tập trung và dân chủ; hai mặt này có mối quan hệ biện chứng (ràng buộc, phụ thuộc, tác động và bổ sung cho nhau) với nhau tạo thành một chính thể thống nhất không thể tách rời. Sự thống nhất này không phải là ngẫu nhiên, mà nó được qui định bởi những nhân tố khách quan của cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và bởi nhiệm vụ của ĐCS trong việc lãnh đạo cuộc đấu tranh đó cho đến thắng lợi cuối cùng.
Tập trung có nghĩa là, ĐCS phải có một cương lĩnh cách mạng chung, trong đó, nêu lên mục tiêu của cách mạng và được toàn thể đảng viên quán triệt thực hiện. Có nghĩa là, trong Đảng phải có một Điều lệ thống nhất, thể hiện những tiêu chuẩn sinh hoạt đảng mà tất cả các tổ chức đảng và toàn thể đảng viên phải tuân theo. Tập trung còn thể hiện ở việc lãnh đạo các tổ chức Đảng, các công tác của Đảng do một trung tâm thực hiện là đại hội đại biểu toàn quốc và trong thời kỳ giữa hai đại hội là BCH TW Đảng. Các nghị quyết của đại hội và của BCH TW Đảng với tính cách là biểu hiện ý chí của toàn Đảng, bắt buộc tất cả các tổ chức và toàn thể đảng viên phải thi hành. Tập trung đòi hỏi phải có kỷ luật thống nhất, phải tuân thủ những tiêu chuẩn sinh hoạt đảng, có ý thức phục tùng nghị quyết của Đảng. Do đó, tập trung trong Đảng không những là uy quyền của tư tưởng mà còn là uy quyền của quyền lực do các cơ quan Đảng và những người lãnh đạo các cơ quan đó thể hiện. Đó là việc thừa nhận sức mạnh về sự lãnh đạo thống nhất của Đảng. Xét trên phạm vi tổng thể, tập trung là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại, hoạt động và phát triển của ĐCS; ở một giác độ hẹp hơn, nó là cơ sở bảo đảm cho dân chủ được thực hiện.
Nếu không có dân chủ trong Đảng, thì sự tồn tại của ĐCS sẽ trở nên vô nghĩa, vì đây là một tổ chức chính trị tự nguyện, độc lập. Sức mạnh của Đảng là do tính tích cực tự giác của toàn thể đảng viên. Chỉ khi nào đảng viên tự giác thảo luận và giải quyết tất cả mọi vấn đề, kể cả việc thành lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng thì tính tích cực của đảng viên mới được nâng cao. Có thực hiện dân chủ trong Đảng mới có điều kiện rèn luyện và giáo dục đảng viên, mới phát huy tốt nhất nghị lực của họ vào việc đề ra và thực hiện đường lối, chính sách và nghị quyết Đảng. Như Lênin đã xác định, bản chất dân chủ trong Đảng là tất cả mọi công việc của Đảng đều được tất cả đảng viên bình quyền tiến hành trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu; đồng thời tất cả những người có trách nhiệm trong Đảng, tất cả các ban lãnh đạo của Đảng, tất cả các cơ quan của Đảng đều được bầu ra, đều có trách nhiệm phải báo cáo và có thể bị bãi miễn. Như vậy, dân chủ trong Đảng thực chất là quyền làm chủ của toàn thể đảng viên, là sự tham gia tích cực của toàn thể đảng viên vào việc quản lý công việc của Đảng một cách trực tiếp hay thông qua những đại biểu của họ, vào việc vạch ra đường lối, chính sách cũng như thành lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Nhưng chỉ trong điều kiện có tính tổ chức cao, tính kỷ luật chặt chẽ, thừa nhận sự lãnh đạo thống nhất của Đảng thì đảng viên mới có thể thực hiện được nghĩa vụ và quyền hạn của mình. Nói như thế có nghĩa là, dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung.
Trong sinh hoạt và tổ chức mọi hoạt động của Đảng, mọi tổ chức Đảng và đảng viên cần tránh hiểu nguyên tắc tập trung dân chủ là một phép cộng số học thuần tuý giữa hai khái niệm tập trung và dân chủ, mà phải hiểu đây là một thực thể, một chỉnh thể thống nhất gồm hai thành tố tập trung và dân chủ. Tập trung và dân chủ trong nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng không đối lập nhau, mà chúng có tác động hỗ trợ qua lại nhằm tạo ra sức mạnh thống nhất trong Đảng. Dân chủ chỉ đối lập với thứ tập trung mang tính quan liêu, gia trưởng và độc đoán chuyên quyền.
Tập trung và dân chủ trong nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng cũng không được hiểu một cách tách biệt đâu là mục tiêu đâu là động lực, mà nó phải được hiểu vừa là mục tiêu, vừa là động lực nhằm tạo cho Đảng một sức mạnh vô địch một ý chí thống nhất tạo sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân xây dựng thành công CNXH, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tựu trung, trong quá trình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tất cả các cơ quan của Đảng và toàn thể đảng viên phải luôn giải quyết vấn đề trên cơ sở nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt tập trung và dân chủ, phải luôn xem đây là một chỉnh thể thống nhất không được tách rời, không nên xem nhẹ mặt này hay coi nặng mặt kia cũng như không được tuyệt đối hoá mặt nào. Việc tuyệt đối hoá tập trung sẽ kìm hãm tính năng động, sáng tạo và tự giác của đảng viên, dẫn đến chuyên quyền, độc đoán và chủ quan duy ý chí. Ngược lại, nếu tuyệt đối hoá dân chủ sẽ biến tổ chức Đảng thành một câu lạc bộ, không tập trung được ý chí thống nhất của Đảng, không tạo ra được sức mạnh tập thể và dễ rơi vào tình trạng dân chủ vô tổ chức. Lịch sử quá trình sụp đổ của ĐCS LX và các nước XHCN Đông Âu cũng như thực tế cách mạng Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua đã chứng minh vị trí, vai trò và tầm quan trọng trong việc nhận thức đúng và thực hiện đúng nguyên tắc xương sống của ĐCS - nguyên tắc tập trung dân chủ.
c. Thực hiện nguyên tắc trong giai đoạn hiện nay
Ngày nay, Đảng ta đang lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, vì vậy, đòi hỏi Đảng phải lãnh đạo và đi tiên phong trong công cuộc đổi mới và bản thân Đảng phải luôn tự đổi mới, tăng cường công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thích ứng với nền kinh tế và cơ chế thị trường định hướng XHCN. Những chuyển biến tích cực trong thực hiện nguyên tắc này:
Mọi chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng đều được thảo luận và lấy ý kiến của đảng viên và các tổ chức cơ sở đảng từ cơ sở trở lên; Sinh hoạt của các cấp uỷ và tổ chức đảng được tiến hành dân chủ hơn; dân chủ trong đảng và dân chủ bên ngoài xã hội có bước khởi sắc, việc bầu cử có chuyển biến tích cực; công tác đánh giá, tuyển chọn, đề bạt cán bộ được tiến hành công khai, dân chủ, tập thể hơn; sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đã có sự chuyển biến rõ rệt trong đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế.
Tuy nhiên, cũng còn những mặt yếu kém mà Đại hội IX đã chỉ rõ: Tình trạng tuỳ tiện, thiếu ý thức tổ chức, kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước, báo cáo không trung thực, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho một số nghị quyết của Đảng khó đi vào cuộc sống. Công tác chỉ đạo, điều hành ở các cấp, các ngành còn nhiều bất cập, thiếu kiểm tra đôn đốc và chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu lực và hiệu quả chưa cao. Nhiều nhiệm vụ công tác lớn đã được đề ra nhưng thực hiện không đến nơi đến chốn hoặc chỉ nói mà không làm. Nhiều cán bộ, đảng viên, công chức vi phạm pháp luật và điều lệ Đảng chưa được xử lý thật kiên quyết.
Ngoài ra, không ít cấp uỷ và tổ chức đảng thiếu tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của đảng viên; trong sinh hoạt còn thiếu cơ chế cụ thể có hiệu lực bảo đảm phát huy dân chủ; hiện tượng cán bộ lãnh đạo độc đoán, mệnh lệnh, trù dập, ức hiếp quần chúng còn xảy ra; trong khi tình trạng m ất dân chủ hoặc dân chủ hình thức còn nặng thì những biểu hiện dân chủ cực đoan, tự do vô kỷ luật còn không ít; tệ bè cánh, mất đoàn kết còn xảy ra, thậm chí một số nơi nghiêm trọng; một số cấp uỷ, cán bộ, đảng viên còn hữu khuynh trong đấu tranh chống tiêu cực và các quan điểm sai trái; vẫn còn tình trạng ô dù… gây bất bình trong Đảng và nhân dân.
Do đó, để thực hiện được nguyên tắc này, cần phải có nhận thức đúng đắn và thống nhất về yêu cầu, nội dung dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời có cơ chế đảm bảo thực hiện nội dung đó.
Trong công tác cán bộ, cần quy định cụ thể tiêu chuẩn cho từng chức danh cán bộ. Việc giới thiệu người để bầu vào cấp uỷ phải được tiến hành từ cơ sở. Bổ nhiệm cán bộ phải hỏi ý kiến và lấy phiếu ý kiến từ cơ sở. Việc đánh giá cán bộ nhất thiết phải hỏi ý kiến cấp quản lý cán bộ, quần chúng và cấp dưới, cùng những người có quan hệ, có hiểu biết về cán bộ cũng như đối thoại trực tiếp với cán bộ đó. Quy định thành chế độ cán bộ lãnh đạo các cấp xuống làm việc trực tiếp ở cơ sở và tiếp xúc với dân, đối thoại với quần chúng và cấp dưới, giải quyết kịp thời công việc cấp bách ở cơ sở có hiệu quả.
Để làm được điều đó thì cán bộ cấp trên, cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu, các cơ quan kiểm tra, giám sát phải tích cực hoạt động.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Đó cũng là nguyên tắc quan trọng nhất để chỉ đạo mọi hoạt động của tổ chức, sinh hoạt nội bộ và phong cách làm việc của Đảng. Nó đảm bảo cho sự thống nhất ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh vô địch của một đảng cách mạng. Đây là nguyên tắc phân biệt chính đảng của giai cấp công nhân, đảng cách mạng chân chính với các đảng khác. Đây cũng là điểm mà mọi thế lực chống đối thường công kích nhằm phá hoại Đảng và phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của Đảng cộng sản, nó chỉ đạo toàn bộ hoạt động lãnh đạo, sinh hoạt, tổ chức bộ máy, phong cách lãnh đạo - đây là vấn đề nằm ngay trong bản chất giai cấp công nhân của Đảng cộng sản. Vì vậy, tập trung dân chủ là nguyên tắc có tính chuẩn mực, là tiêu chí để phân biệt một tổ chức đảng chân chính với một đảng cơ hội khác, đồng thời là thước đo tính đảng của đảng viên. Phủ nhận nguyên tắc này là phủ nhận Đảng từ bản chất, xóa bỏ nguyên tắc này là phá hoại sức mạnh của Đảng từ gốc, xóa bỏ nguyên tắc này sẽ sa vào cái bẫy đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Từ đó dẫn tới sự phân liệt trong Đảng, làm cho xã hội phân tâm, rối loạn, mất đi sự ổn định chính trị. Kinh nghiệm của phong trào cộng sản quốc tế và hoạt động của Đảng CSVN cho thấy rằng chỉ có thể duy trì và thực hiện đúng nguyên tắc này thì Đảng mới không tan rã về tổ chức.
Thực trạng việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ:
Chế độ tập trung dân chủ dựa trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của phong trào vô sản. Chính vì địa vị của giai cấp công nhân trong một nền sản xuất gắn liền với đại sản xuất cơ khí, nên họ hướng tới tổ chức và tập trung lực lượng cách mạng. Trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình, giai cấp vô sản phải đương đầu với một kẻ thù có tổ chức, có bộ máy nhà nước hùng mạnh là giai cấp tư sản. Muốn chiến thắng, giai cấp vô sản phải có ý thức tổ chức kỷ luật cao, đoàn kết thống nhất và phải thành lập chính đảng của mình. Mặt khác, xét về mặt bản chất, giai cấp công nhân có tính dân chủ rộng rãi, quan hệ giai cấp của họ là quan hệ bình đẳng. Và sau khi chiến thắng chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân tạo điều kiện cho toàn thể nhân dân lao động - số đông trong xã hội, có thể phát huy tính tích cực, chủ động tham gia rộng rãi vào mọi hoạt động xã hội.
Nguyên tắc tập trung dân chủ có tính khách quan, bởi vì, tập trung là yếu tố phổ biến của mọi kiểu tổ chức trong đó có Đảng cộng sản và giai cấp công nhân, tập trung là yếu tố khách quan, đó là yếu tố cần thiết của mọi tổ chức con người, của tất cả các tổ chức kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự... và cho đến ngay cả một đội bóng đá cũng cần phải có tập trung vì nếu không sẽ tan rã về mặt tổ chức. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, lịch sử loài người trải qua bao nhiêu kiểu chế độ xã hội thì có bấy nhiêu kiểu tập trung. Với chế độ xã hội chủ nghĩa thì tập trung đó là tập trung quyền lực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nói về điều này, Lênin đã từng nói: nếu không có thiểu số phục tùng đa số thì không có tổ chức.
Đảng cộng sản là chính đảng của giai cấp công nhân, là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Đảng cộng sản là tổ chức có khả năng thực hiện tập trung cao bởi vì, mọi hoạt động của ĐCS đều xuất phát từ lợi ích chung, cơ sở tư tưởng chung, mục đích chung và vai trò địa vị chung. Nếu không có một trung tâm lãnh đạo thống nhất, một cơ quan trung ương thống nhất thì không thể tồn tại một sự thống nhất thực sự ở trong Đảng, sứ mệnh lịch sử của ĐCSVN bắt nguồn từ sự thống nhất về chính trị, về tư tưởng, về tổ chức...
Nguyên tắc tập trung dân chủ có tính biện chứng (hay là tính thống nhất giữa tập trung và dân chủ). Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hữu cơ giữa hai mặt tập trung và dân chủ trong xây dựng, trong tổ chức, trong sinh hoạt và trong hoạt động của ĐCS.
Tập trung, đó là sự liên minh tự nguyện của những người cộng sản thành một tổ chức có lãnh đạo và kỷ luật thống nhất, tập trung ở đây xét ở những góc độ:
Thứ nhất, Đảng với tư cách là một tổ chức thống nhất về ý chí, trí tuệ, hành động và lý luận. Về điều này, Bác Hồ đã từng nói: Đảng ta tuy nhiều người nhưng khi tiến đánh chỉ là một người. Tập trung tạo nên sức mạnh của Đảng, không có tập trung thì sức mạnh của Đảng sẽ mất đi.
Thứ hai, tập trung trong Đảng bao gồm ba nội dung chính sau: Đảng phải có một cương lĩnh điều lệ thống nhất; Đảng phải có một trung tâm lãnh đạo thống nhất - có nghĩa rằng sự lãnh đạo của Đảng phải từ một trung tâm và do một trung tâm thực hiện, nghĩa là việc lãnh đạo các tổ chức Đảng, các công tác Đảng đều do một trung tâm thực hiện. Đảng phải có một kỷ luật thống nhất (không có trường hợp ngoại lệ). Như vậy, tập trung trong Đảng là tập trung ở 3 nội dung này, tập trung trong Đảng là quyền lực của đa số. Chính sự thừa nhận sự lãnh đạo duy nhất của Đảng là điều kiện cần thiết để Đảng tồn tại hoạt động và phát triển.
Thứ ba, tập trung trong Đảng nó có giới hạn của nó (giới hạn chứ không phải là hạn chế). Tập trung phải là tập trung trong khuôn khổ điều lệ của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Tập trung phải gắn với chế độ dân chủ tập thể - đó là tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Tập trung đó là tập trung trong một điều kiện về kinh tế xã hội cho phép. Tập trung được giới hạn trong điều kiện năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ đảng viên. Nếu vượt quá những giới hạn này sẽ trượt sang tập trung quan liêu, độc đoán chuyên quyền, do vậy, quyền trong Đảng luôn có giới hạn. Và nếu tập trung trong Đảng không có giới hạn thì quyền uy không được kiểm soát sẽ tất yếu tạo ra sự lộng quyền, chuyên quyền, độc đoán.
Dân chủ, đó là quyền làm chủ của người đảng viên. Người đảng viên là cá nhân cao nhất ở trong Đảng, quyền của đảng viên được ghi rõ trong điều lệ Đảng. Đảng cộng sản tồn tại sẽ không có ý nghĩa nếu không có dân chủ trong Đảng. Đây là một tổ chức chính trị tự nguyện, độc lập, sức mạnh của Đảng là do tính tích cực tự giác của toàn thể đảng viên. Chỉ khi nào đảng viên tự giác thảo luận và giải quyết tất cả mọi vấn đề, kể cả việc thành lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng thì tính tích cực của đảng viên mới được nâng cao. Có thực hiện dân chủ trong Đảng mới phát huy tốt nhất nghị lực của họ vào việc đề ra và thực hiện đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng. Lênin đã xác định bản chất của dân chủ trong Đảng là: Tất cả mọi công việc của Đảng đều được toàn thể các đảng viên bình quyền tiến hành trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu của mình quyết định; đồng thời tất cả những người có trách nhiệm trong Đảng, tất cả các ban lãnh đạo của Đảng, tất cả các cơ quan của Đảng đều được bầu ra, đều có trách nhiệm phải báo cáo và có thể bị bãi miễn.
Dân chủ trong Đảng cũng phải có giới hạn của nó, đó là, dân chủ cũng phải tuân thủ theo quy định trong điều lệ Đảng; dân chủ cũng phải gắn với chế độ tập trung có lãnh đạo, định hướng và giai cấp; dân chủ được đặt trong điều kiện chính trị - kinh tế, văn hóa, xã hội... cho phép; dân chủ cũng phụ thuộc vào trình độ đội ngũ đảng viên; dân chủ cũng phải tương quan với cuộc đấu tranh giai cấp trong nước và quốc tế. Nếu vượt quá giới hạn này, nó sẽ trượt sang dân chủ vô chính phủ và dân chủ hỗn loạn, do vậy, dân chủ trong Đảng cũng phải có giới hạn của nó, nếu không sẽ tan rã về mặt tổ chức.
Như vậy, thực chất dân chủ trong Đảng là phát huy quyền làm chủ của toàn thể đảng viên, là sự tham gia tích cực của toàn thể đảng viên vào công việc của Đảng một cách trực tiếp, hay thông qua những đại biểu của họ vào việc vạch ra đường lối, chính sách, vào việc thành lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hòa giữa hai mặt tập trung và dân chủ, tạo thành chỉnh thể thống nhất của một nguyên tắc. Đó là bản chất của nguyên tắc này. Dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung, cũng như tập trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Về vấn đề này, Lênin đã viết: Trên báo chí của chúng tôi, chúng tôi luôn luôn bảo vệ dân chủ trong nội bộ đảng. Nhưng chúng tôi không bao giờ phản đối chế độ tập trung của Đảng. Chúng tôi chủ trương chế độ tập trung dân chủ. Do đó, đối với một đảng mácxít - lêninít, trừ những hoàn cảnh riêng biệt của các giai đoạn cách mạng, dân chủ và tập trung phải được coi trọng như nhau, tuyệt đối hóa một mặt nào đều có thể dẫn đến những sai lầm nguy hiểm, có hại cho sự lãnh đạo và sức mạnh của Đảng.
Tóm lại, tập trung và dân chủ cả hai đều là định tính chứ không phải là định lượng. Vấn đề quan trọng là áp dụng nó trong thực tế như thế nào cho phù hợp và cho đúng. Về vấn đề này, Lênin nói: phải có tính sáng tạo của nguyên tắc này được xác định bởi điều kiện đấu tranh giai cấp, hoàn cảnh lịch sử và mức độ trưởng thành về chính trị của cán bộ, đảng viên./.
HỎI VÀ ĐÁP