Sản xuất hàng hóa là gì? Quy luật giá trị trong sản xuất hàng hóa. Vận dụng quy luật này trong phát triển kinh tế nước ta.
Phần 1: SX Hàng hóa là gì?
- Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
- Sản xuất hàng hóa: Là sản xuất ra sản phẩm để bán. Hay nói cách khác, sản xuất hàng hóa là cách thức tổ chức sản xuất mà trong đó, sản phẩm làm ra không phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó mà để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác thông qua trao đổi, mua bán.
* Sản xuất hàng hóa ra đời khi có 2 ĐK sau:
- Có sự phân công lao động xã hội. Đó là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động vào những ngành, những lĩnh vực khác nhau của nền sản xuất xã hội. Phân công lao động XH làm cho việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu. Phân công lao động xã hội làm cho mỗi người sản xuất, mỗi cơ sở sản xuất chỉ sản xuất ra một loại sản phẩm nhất định, nhờ có PC LĐXH mà NSLĐ tăng lên, làm ra nhiều sản phẩm hơn. Do nhu cầu trong cuộc sống của con người đòi hỏi phải tiêu dùng nhiều loại sản phẩm khác nhau, để đáp ứng nhu cầu đó, họ phải liên hệ, trao đổi sản phẩm cho nhau. Như vậy, Phân công lao động xã hội là cơ sở, tiền đề để sản xuất hàng hóa.
- Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những chủ thể SX độc lập nhất định (có tính tự chủ về vốn, tài chính, phương án sản xuất, phân phối tiêu thụ sản phẩm). Sự tách biệt này là xuất hiện đầu tiên trong lịch sử do quan hệ sở hữu tư nhân về TLSX, về sau, do sự đa dạng về quan hệ sở hữu hoặc sự tách biệt tương đối giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất quy định. Do đó, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ và do họ chi phối, người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hóa.
Đó là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hóa, nếu thiếu một trong hai điều kiện thì không có sản xuất hàng hóa và sản phẩm lao động không mang hình thái hàng hóa.
- Lịch sử phát triển của nền sản xuất đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế, đó là sản xuất tự cung tự cấp và sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa ra đời vào giai đoạn cuối công xã nguyên thủy (SX để tiêu dùng), giai đoạn đầu của chế độ CHNL. Sản xuất hàng hóa ra đời là một bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng mông muội, xóa bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội. Sản xuất hàng hóa có những ưu thế so với nền SX tự cung tự cấp, đó là:
+ Sản xuất hàng hóa ra đời khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở, từng vùng, từng quốc gia (do có sự phân công lao động XH, chuyên môn hóa SX).
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, quy mô sản xuất được mở rộng
+ Sự tác động của Quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh… buộc người sản xuất phải luôn năng động, nhạy bén, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
+ Sản xuất hàng hóa phát triển làm cho đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của nhân dân ngày càng được tăng cao, phong phú và đa dạng.
Song bên cạnh đó, sản xuất hàng hóa cũng tồn tại những mặt trái của nó như: Phân hóa giàu nghèo giữa những người SXHH, nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực như: gian lận thương mại, hàng giả, trốn thuế, buôn lậu, phá hoại môi trường sinh thái và tiềm ẩn những khả năng, nguy cơ khủng hoảng kinh tế…Thực tế 30 năm đổi mới ở nước ta đã chứng minh cho ưu thế nổi bật của SXHH, đồng thời cũng bộc lộ mặt trái, thách thức cần khắc phục.
Phần 2: Quy luật giá trị trong sản xuất hàng hóa?
a. Hai thuộc tính của hàng hóa:
- Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa đó và nó có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. VD: vải để mặc
Giá trị của hàng hóa là thuộc tính tự nhiên của hàng hóa đó quyết định. Khi xã hội loài người càng phát triển thì càng phát hiện ra nhiều thuộc tính tự nhiên của vật phẩm và lợi dụng thuộc tính tự nhiên đó để tạo ra những giá trị sử dụng khác nhau. KHCN và LLSX nói chung càng phát triển thì giá trị sử dụng của HH được phát hiện ngày càng nhiều, chất lượng giá trị sử dụng ngày càng cao.
Giá trị sử dụng của HH là giá trị sử dụng cho xã hội vì GTSD của HH không phải là GTSD dành cho người sản xuất trực tiếp ra nó ra nó mà dành cho người mua nó, cho XH thông qua trao đổi mua bán. Điều đó đòi hỏi người SXHH phải luôn quan tâm đến nhu cầu XH, làm cho sản phẩm của mình đáp ứng được nhu cầu XH. Giá trị sử dụng của HH là vật mang giá trị trao đổi, được thực hiện trong tiêu dùng. GTSD là một phạm trù vĩnh viễn.
- Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Chất của GT là LĐ. Lượng của GT là số lượng LĐ của người SX kết tinh trong HH. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung, cơ sở của giá trị trao đổi. GT của HH 1 mặt biểu hiện hao phí lao động SX, mặt khác biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa với nhau. Cũng chính vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử, nó tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa.
- Hai thuộc tính của hàng hóa có quan hệ chặt chẽ, vừa thống nhất nhưng vừa mâu thuẫn nhau.
b. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa:
Lao động của sản xuất hàng hóa vừa mang tính chất lao động cụ thể vừa mang tính chất là lao động trừu tượng. Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động khác nhau. LĐ cụ thể tạo ra GT sử dụng của HH. Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những hình thức lao động cụ thể của nó, đó chính là sự tiêu phí sức lao động nói chung của người sản xuất hàng hóa. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa. Giá trị của hàng hóa chính là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
- Lao động cụ thể và lao động trừu tượng vừa thống nhất vừa mâu thuẫn. Thống nhất biểu hiện chúng là hai mặt của cùng một lao động sản xuất hàng hóa. Mâu thuẫn biểu hiện ở chỗ, với tư cách là lao động cụ thể tạo, LĐ của người SXHH đã tạo ra một giá trị sử dụng với số lượng và chất lượng nhất định cho xã hội; nhưng với tư cách là lao động trừu tượng, sự hao phí sức lao động của người sản xuất hàng hóa có thể ăn khớp với mức hao phí lao động của xã hội.
- Mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất hàng hóa là mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội. MT đó còn được thể hiện ở MT lao động cụ thể và LĐ trừu tượng, giữa giá trị sử dụng và giá trị của hàng hóa. Những mâu thuẫn đó vừa thúc đẩy xã hội phát triển vừa chứa đựng nguy cơ khủng hoảng kinh tế.
c. Lượng giá trị của hàng hóa:
- Lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa, được đo bằng thời gian lao động để sản xuất ra hàng hóa. Lượng giá trị của hàng hóa không tính bằng thời gian lao động cá biệt mà tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.
- Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động đòi hỏi để sản xuất ra một HH nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của XH, với một trình độ thành thạo trung bình và cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa:
+ Năng suất lao động: là số lượng sản phẩm SX ra trong 1 đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian lao động hao phí để SX ra 1 đơn vị sản phẩm. Khi NSLĐ tăng thì số lượng SP làm ra trong 1 đơn vị thời gian tăng hay SL thời gian LĐ hao phí để SX ra 1 đơn vị SP sẽ giảm. Do đó, lượng GT của 1 HH giảm xuống, giá cả HH sẽ rẻ hơn và ngược lại.
+ Cường độ lao động là mức độ khẩn trương của LĐ trong một đơn vị thời gian. CĐLĐ tăng lên -> Khối lượng sp tăng -> Hao phí lao động trên 1 đơn vị SP không đổi -> giá trị HH không đổi.
+ Mức độ phức tạp của LĐ: LĐ giản đơn tạo ra giá trị thấp. LĐ phức tạp đã qua đào tạo tạo ra giá trị cao.
d. Nội dung của quy luật giá trị:
- Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Ở đâu có trao đổi SX, HH thì ở đó có sự hoạt động của QLGT. Nội dung của quy luật giá trị đó là sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị của nó tức là dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiêt. Cụ thể:
+ Đối với sản xuất, quy luật giá trị đòi hỏi người sản xuất phải căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết. Tức là lượng giá trị cá biệt của hàng hóa phải phù hợp với lượng lao động XH cần thiết để làm ra hàng hóa đó. Lượng giá trị cá biệt của HH phải bằng hoặc thấp hơn lượng lao động XH cần thiết thì lúc đó mới sản xuất HH giá bằng hoặc thấp hơn giá chung của thị trường, mới bán HH có lãi.
+ Đối với lưu thông, việc trao đổi phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá. Trong trao đổi HH với nhau, hai bên được lợi về giá trị sử dụng còn lượng giá trị là bằng nhau. Hai hàng hóa được trao đổi trực tiếp với nhau theo một tỷ lệ nào đó có nghĩa là chúng kết tinh một lượng lao động bằng nhau. Khi có tiền xuất hiện để mua bán HH thì giá cả HH phải dựa trên cơ sở giá trị của nó.
- Sự tác động của quy luật giá trị đối với nền kinh tế hàng hóa là thông qua sự lên xuống của giá cả thị trường. QLGT hoạt động được thể hiện ở sự biến đổi lên, xuống của giá cả thông qua sự biến đổi của quan hệ cung - cầu về HH trên thị trường. Sự biến đổi giá cả 1 cách tự phát tự do là sự phản ánh hoạt động của QLGT.
Nếu sức mua đồng tiền không thay đổi (không tính đến sự điều tiết của NN và độc quyền) thì xảy ra 3 trường hợp: khi cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị, khi cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn giá trị, khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả lớn hơn giá trị. Sự thay đổi của giá cả xoay quanh trục giá trị tạo ra sự hấp dẫn cho SX và tiêu dùng.
Đồng thời giá cả cũng có tác động đến cung và cầu. Nếu xét trên phạm vi toàn xã hội thì tổng giá cả bằng tổng giá trị.
- Chức năng, tác dụng của quy luật giá trị:
+ Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa: Trong sản xuất, QLGT tự động điều tiết SX thể hiện ở chỗ thu hút vốn (TLSX và SLĐ) vào các ngành sản xuất khá nhau (theo sự biến động của cung cầu, giá cả) tạo nên cơ cấu KT hiệu quả hơn nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội. Trong lưu thông, QLGT thể hiện ở việc thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao. Do đó, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
+ Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Các hàng hóa được sản xuất trong những điều kiện khác nhau nên có giá trị cá biệt khác nhau. Nhưng trên thị trường đều phải trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Người sản xuất nào có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội thì sẽ có lợi. Vì vậy, mỗi người sản xuất đều tìm cách giảm giá trị cá biệt hàng hóa của mình xuống dưới mức chi phí lao động xã hội bằng cách cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm để tăng năng suất lao động, giảm chi phí SX. Sự cạnh tranh quyết liệt đã làm cho năng suất lao động xã hội không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống. Quá trình này diễn ra liên tục làm cho LSX XH phát triển.
+ Phân hóa những người sản xuất HH thành giàu nghèo, làm xuất hiện quan hệ sản xuất TBCN. Trong sản xuất hàng hóa, hàng hóa của những người SX nào có mức hao pí LĐ cá biệt thấp hơn hao phí LĐ XH cần thiết thì khi bán HH người đó sẽ thu được nhiều lãi, trở nên giàu có, mua sắm thêm TLSX, mở rộng sản xuất kinh doanh, trở thành ông chủ, ngược lại thì sẽ không có lợi, thua lỗ, phá sản và trở thành người lao động làm thuê. Chính do tác động nhiều mặt của quy luật giá trị đã làm cho sản xuất hàng hóa thực sự trở thành khởi điểm ra đời của CNTB.
Như vậy, QLGT vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực 1 cách tự phát, khách quan.
Phần 3: Vận dụng quy luật này trong phát triển kinh tế nước ta?
Trước thời kỳ đổi mới, chúng ta phủ nhận SXHH và QLGT nên không khai thác được các nguồn lực, nền KT kém phát triển, rơi vào khủng hoảng. Trong thời kỳ ĐM, chúng ta phá triển SXHH, QLGT hoạt động, tạo nên cạnh tranh, phát triển KT...bên cạnh đó, những mặt trái cũng nảy sinh như: phân hóa giàu nghèo, buôn gian, bán lận...Vì vậy để tiếp tục phát triển nền KT nước ta theo đúng định hướng XHCN, cần phải nghiên cứu vận dụng đúng đắn QL này vào trong tất cả các lĩnh vực SXKD của nền KT; cần phải có sự điều tiết định hướng của NN nhằm hạn chế tối đa những tác động tiêu cực, tự phát của quy luật này. Cụ thể:
Đối với các chủ thể SXKD (DN):
- Các chủ thể SXKD (DN) phải tôn trọng và phát huy vai trò của quy luật giá trị trong quá trình SXKD, trao đổi HH. Lấy thị trường (cung và cầu) để điều tiết SX, lưu thông không dùng ý chí chủ quan để áp đặt như trước đây trong thời kỳ bao cấp là SK theo kế hoạch.
- Tác động của quy luật giá trị sẽ lựa chọn ra những người sản xuất tài giỏi biết làm giàu chính đáng, yêu cầu những người SX kém phải biết đổi mới công nghệ, vươn lên thông qua cạnh tranh. Dó đó, các DN phải nhạy bén năng động luôn tìm hiểu thị trường, hàng hóa, máy móc công nghệ -> cải tiến, đổi mới máy móc, nâng cao trình độ quản lý, Đổi mới mẫu mã, nâng cao NSLĐ để giảm giá thành sản phẩm (giá trị HH cá biệt) thấp hơn giá trị thị trường (giá trị LĐXH).
- Các chủ thể SXKD phải phát huy những ngành, lĩnh vực mình có lợi thế, lựa chọn những mặt hàng mà XH, người tiêu dùng cần.
Đối với nền KT:
- Yêu cầu các chủ thể SXKD phải cạnh tranh nhau thông qua đó sử dụng có hiệu quả 4 nguồn lực KT (vốn, KHCN, tài nguyên thiên nhiên,con người) góp phần thúc đẩy LLSX phát triển.
- NN phải tôn trọng và phát huy, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực khi phân bổ cho các ngành, các thành phần KT, các vùng. Trước đây phân bổ bình quân cào bằng (Nhà máy đường, xi măng...) nay phải sử dụng hiệu quả nguồn vốn của NN. Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa mạnh hơn nữa; khuyến khích phát triển mạnh kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức kinh tế cổ phần; nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp; nâng cao hiệu quả đầu tư bằng vốn ngân sách.
- Trong giai đoạn hiện nay, xuất phát điểm của nền KT còn thấp, NN phải xây dựng những vùng chuyên môn hóa SX, đổi mới cải tiến kỹ thuật, đẩy mạnh CNH-HĐH, nâng cao trình độ người lao động, phát triển nền KT tri thức. Muốn đẩy mạnh phát triển mô hình nền KTTT theo định hướng XHCN ở một địa bàn, một ngành cần thúc đẩy phân công LĐ thông qua hướng nghiệp, đào tạo và quyền tự chủ về quyền sở hữu, sử dụng các yếu tố SX,
- NN điều tiết thị trường bằng pháp luật, phải có các chính sách (về thuế, đầu tư, đào tạo nhân lực...) để tạo ĐK phát huy mặt tích cực của quy luật giá trị, tạo ĐK cho DN, khắc phục những mặt trái của QLGT (trốn thuế, buôn lậu, hàng giả, Sự phân hóa giàu nghèo, bất công XH...). NN tiếp tục ban hành và hoàn chỉnh các quy định về chế độ tiền lương, chế độ làm việc, bảo hộ, an toàn lao động, BHXH, bảo hiểm thất nghiệp...sử dụng ngân sách để chính sách an sinh XH rút ngắn khoảng cách giữa các vùng miền, các tầng lớp (người già, người nghèo...), đảm bảo định hướng XHCN của nền KTTT ở nước ta.
- Tạo cơ chế chính sách giải quyết vấn đề thị trường đầu ra cho hàng hóa (giải quyết vấn đề cung cầu) bằng việc ký kết các hiệp định thương mại song phương, đa phương
- Tạo lập và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Tiếp tục chủ động hội nhập sâu rộng hơn nữa, thực hiện có hiệu quả các cam kết theo quy định của tổ chức thương mại thế giới.
Tóm lại: Quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Nó quy định việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết. Quy định ấy là khách quan, bảo đảm sự công bằng, hợp lý, bình đẳng giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hóa. Quy luật này đang hoạt động và phát huy tác dụng trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Song quy luật này cũng có những tác động phức tạp đến sản xuất hàng hóa và xã hội. Vì vậy, chúng ta cần phát huy những tác dụng tích cực, hạn chế những tác dụng tiêu cực của quy luật giá trị, nhằm phát triển nền kinh tế nước ta theo định hướng XHCN.
HỎI VÀ ĐÁP