Tính tất yếu lịch sử của sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
* Những tác động tình hình thế giới
Sau khi chủ nghĩa tư bản (CNTB) tự do cạnh tranh phát triển nhiều công ty xuyên quốc gia, tư bản độc quyền… trở thành hệ thống chủ nghĩa đế quốc trên toàn thế giới, đã chiếm hầu hết các vùng đất trên thế giới, biến những nước nhỏ thành thuộc địa và phụ thuộc bóc lột tài nguyên, sức lao động và mở rộng thị trường. Từ đó đã xảy ra những mâu thuẫn: nhân dân thuộc địa và đế quốc; giai cấp (g/c) vô sản chính quốc và giai cấp tư sản chính quốc. Lênin và quốc tế cộng sản bổ sung và phát triển tư tưởng đó bằng khẩu hiệu chiến lược “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”; tư tưởng HCM “Những người lao động trên toàn thế giới đoàn kết lại”.
Thắng lợi CM/10 Nga 1917, CNXH trở thành hiện thực có ý nghĩa mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên toàn thế giới; đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, CM tháng 10 Nga là tấm gương cổ vũ cho các dân tộc bị áp bức noi theo trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, tác động sâu sắc đến phong trào yêu nước Việt Nam.
Hai năm sau CM/10 Nga, ngày 2/3/1919 Quốc tế Cộng sản III được thành lập do Lênin sáng lập, trở thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Nhờ ảnh hưởng CM /10 Nga và Quốc tế CS cùng sự ra đời nhiều ĐCS trên t/g: Mỹ 1919, Anh 1920, Mông Cổ 1921, Trung quốc 1921, Nhật 1922, mở ra thời đại quá độ lên CNXH. Tư tưởng, lý luận CNCS đã ảnh hưởng và thức tỉnh phong trào dân tộc ở các thuộc địa, trong đó có VN.
* Tình hình trong nước:
Năm 1858 Thực dân Pháp (TD. P) xâm lược Việt Nam (nổ phát súng đầu tiên tại bán đảo Sơn Trà- Đà Nẵng), gần 30 năm sau (Hiệp ước Patơnốt năm 1884), triều Nguyễn đã đầu hàng, dâng nước ta cho Pháp; về cơ bản TD.P đã đặt ách thống trị lên VN.
TD.P thực hiện chính sách cai trị, bóc lột hà khắc; về chính trị, chúng thực hiện chính trị chuyên chế điển hình( chia đất nước ta thành 3 miền để dễ cai trị), về kinh tế phụ thuộc vào chính quốc, về VH-XH thực hiện chính sách ngu dân. Tóm lại TD.P thâu tóm quyền lực và biến VN từ xã hội phong kiến trở thành nước thuộc địa, nửa phong kiến (Mọi quyền hành tập trung vào TD.P).
* Chuyển biến về cơ cấu giai cấp xã hội
Phong kiến ( phong tước, kiến địa ruộng đất) đã bị tan rã, một số ít g/c phong kiến phản động, đầu hàng kẻ thù: bộ phận ít g/c phong kiến cam tâm làm tay sai cho địch; đa số g/c phong kiến còn lại có tinh thần yêu nước và dân tộc.
Nông dân(chiếm 90% dân số); về mặt tích cực: có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần dân tộc cao, sẵn sàng theo g/c công nhân làm cách mạng giải phóng dân tộc; hạn chế: có ý thức về tư hữu của sản xuất nhỏ.
Công nhân: (năm 1929: chiếm 1,2% dân số); tính tích cực: gắn bó với nông dân và cũng xuất thân từ nông dân trở thành công nhân khi TD.P khai thác nước ta sớm tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lê nin. G/c công nhân là g/c tiên tiến nhất lãnh đạo CM thông qua chính Đảng của mình; hạn chế: lực lượng còn ít, trình độ chuyên môn thấp đã làm giảm vai trò của g/c công nhân VN.
Tư sản: (Đặc biệt ra đời sau g/c công nhân); tư sản dân tộc(đa số): có tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc, sẵn sàng tham gia vào CM giải phóng dân tộc ; tư sản mại bản(ít): gắn quyền lợi chính trị, kinh tế với thực dân P.
Tiểu tư sản (nhiều thành phần): đặc biệt đội ngũ trí thức và HCM xem là lực lượng châm ngòi pháo CM; hạn chế: tinh thần dao động trong giờ phút quyết định nhất.
Do vậy giai cấp công nhân VN có sứ mệnh lịch sử to lớn lãnh đạo CM VN tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc (g/c công nhân VN được tiếp nhận và trang bị lý luận Mác – Lênin tư tưởng tiên tiến của thời đại thể hiện là g/c có năng lực lãnh đạo CM; do Đảng CS lãnh đạo)
Mâu thuẫn cơ bản của dân tộc VN trong giai đoạn này là: mẫu thuẫn giữa toàn thể dân tộc VN với thực dân pháp ngày càng sâu sắc (đấu tranh chống TD.P giành độc lập cho dân tộc), trở thành mâu thuẫn chủ yếu nhất. Mâu thuẫn cơ bản của XH VN thay đổi bên cạnh mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ, phong kiến đã có từ trước (lật đổ giai cấp phong kiến giành ruộng đất cho nông dân).
* Các phong trào yêu nước
Kế thừa truyền thống yêu nước của dân tộc.
- Các phong trào đấu tranh chống TD.P xảy ra rất nhiều nơi và nhiều tầng lớp tham gia khởi xướng:
Nhìn chung có hai khuynh hướng:
Phong kiến: phong trào Cần Vương do Tôn Thất Thuyết đứng đầu (1885-1896) điển hình là các cuộc khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hóa), Bãi Sậy (Hưng Yên), Hương Khê (Hà Tĩnh); phong trào khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám đứng đầu (1884-1913)... đều bị thất bại.
Dân chủ tư sản: Phan Bội Châu (Đứng đầu phong trào Đông Du); Phan Chu Trinh (phong trào Duy Tân: đổi mới, cải cách nâng cao dân trí) nhưng theo chủ nghĩa cải lương đấu tranh bằng cách thông qua nghị trường nhưng đều bị thất bại.
Tóm lại CMVN đầu thế kỷ XX bị bế tắc về đường lối, không có tổ chức chân chính lãnh đạo và chưa tập hợp được sức mạnh tổng hợp các lực lượng trong xã hội tham gia.
Vai trò của Nguyễn Ái Quốc (NAQ): Ngày 19/5/1890, NAQ sinh ra tại Nghệ An. Từ nhỏ, Người đã kế thừa và sớm tiếp thu được các giá trị truyền thống quý báu của dân tộc đó là tinh thần yêu nước, thương dân; có tính chủ động và sáng tạo, có bản lĩnh và cực kỳ thông minh. Ngày 5/6/1911, Bác ra đi tìm đường cứu nước. Người đã đi năm châu bốn biển (qua thực tiễn, trí tuệ cộng với bản lĩnh của mình) đã thấy được bản chất của chủ nghĩa thực dân là bóc lột. Tiếp cận sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân đạo. Điều đó đã làm chuyển biến quyết định tư tưởng và lập trường chính trị của NAQ từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản và trở thành người CS đầu tiên của VN.
Nguyễn Ái Quốc tham gia đảng XH Pháp, là một đảng tiến bộ nhất lúc đó ở Pháp. Sau một năm rưỡi hoạt động ở Liên Xô tháng 11/1924 người quyết định về Quảng Châu (TQ) để chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức thành lập Đảng CSVN cụ thể:
Về Chính trị: đấu tranh giai cấp (độc lập dân tộc gắn với CNXH); mối quan hệ giữa CM chính quốc với CM thuộc địa (tính chủ động) là động lực; nền tảng CM: khối liên minh công nông; thành lập Đảng; lực lượng CM tập hợp được toàn dân.
Về tư tưởng: tố cáo chủ nghĩa TD.P; đồng thời tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lê nin vào phong trào yêu nước VN.
Về tổ chức: Tháng 6/1925 thành lập Hội VN CM thanh niên tại Quảng Châu, nòng cốt là Cộng sản đoàn (tiền thân của Đảng CSVN); tập hợp lực lượng, mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận Chủ nghĩa M-LN và rèn luyện cán bộ đưa về nước thành lập các tổ chức Đảng.
Phát động phong trào vô sản hóa (1928) của Hội VN CM thanh niên đã có tác dụng thúc đẩy phong trào yêu nước VN theo khuynh hướng CM vô sản, nâng cao ý thức giác ngộ và lập trường CM của g/c công nhân; luân chuyển điều động cán bộ về nước và cử đi học tại trường Đại học CS Đông phương… Công tác chuẩn bị đó đã thúc đẩy phong trào công nhân nổ ra và phát triển mạnh mẽ đều khắp 3 kỳ và các năm 1928,1929 dẫn đến CM VN phát triển mạnh mẽ.
* Sự ra đời của 3 tổ chức CS
Ngày 17/6/1929 tại số nhà 312 phố Khâm Thiên (Hà Nội) Đông Dương CS Đảng (Bắc Kỳ) được thành lập thông qua tuyên ngôn, điều lệ và xuất bản báo Búa Liềm. Trước ảnh hưởng của Đông Dương CS Đảng, kỳ bộ Nam Kỳ quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng(11/1929), xuất bản tờ báo Đỏ làm cơ quan ngôn luận. Tại Trung kỳ, Tân Việt CM Đảng (một tổ chức thanh niên yêu nước) chịu tác động của hội VN CM thanh niên đã thành lập Đông Dương CS Liên đoàn vào 1/1/1930 tại Hà Tĩnh.
Ba tổ chức CS ra đời khẳng định bước phát triển quan trọng của phong trào CMVN. Cả 3 tổ chức CS ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ quốc tế cộng sản, tuy nhiên không tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức. Yêu cầu cấp thiết đặt ra là chấm dứt hiện tượng biệt phái, chia rẽ giữa các nhóm CS, phải thống nhất các tổ chức CS thành một chính đảng duy nhất ở VN.
* Hội nghị hợp nhất 3 Đảng
Trước nhu cầu cấp bách của phong trào CM trong nước, NAQ đã đến Hương Cảng (TQ) chủ trì, triệu tập hội nghị (từ 6/1/1930 đến 8/2/ 1930) hợp nhất các tổ chức CS lại thành 1 chính đảng duy nhất tại VN. Hội nghị thống nhất hợp nhất 3 tổ chức Đảng và lấy tên là Đảng CSVN; hội nghị thông qua các văn kiện do lãnh tụ NAQ soạn thảo đó là: Chánh cương vắn tắt của Đ, Sách lược vắn tắt của Đ, Chương trình tóm tắt của Đ, Điều lệ của Đ CSVN.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên đề ra: phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể:
Con đường CM VN là CM dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ CNXH.
Nhiệm vụ: đánh đổ đế quốc pháp và bọn phong kiến và giành độc lập dân tộc (làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập.)
Lực lượng CM: xác định lực lượng CM phải đoàn kết công nhân, nông dân-đây là lực lượng cơ bản trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo, đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các g/c, các lực lượng tiến bộ, yêu nước tập trung chống đế quốc và tay sai.
Phương pháp tiến hành CM giải phóng dân tộc, cương lĩnh khẳng định phải bằng con đường bạo lực CM.
Vai trò của Đảng với tư cách là đội tiên phong của g/c vô sản.
Phát huy tinh thần tực lực, tự cường đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và g/c vô sản thế giới.
* Ý nghĩa sự ra đời của Đảng
ĐCSVN ra đời là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử CMVN. Sự kiện lịch sử vĩ đại ấy đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước và tổ chức lãnh đạo phong trào yêu nước VN đầu TK XX. Đ CSVN ra đời đáp ứng khát vọng giải phóng dân tộc của nhân dân VN. Chỉ sau 15 năm đi theo đường lối CM của Đảng, dân tộc VN đã làm nên kỳ tích vĩ đại trong CM 8/1945. Thắng lợi vĩ đại ấy đã khẳng định thực tế đường lối đúng đắn, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của ĐCSVN, là mốc son chói lọi trên con đường CM do NAQ-HCM đã hoạch định từ năm 1930 và là nền tảng vững chắc cho dân tộc VN tiếp nối trên con đương độc lập dân tộc và CNXH.
Sự ra đời của ĐCSVN là sản phẩm sự kết hợp CN Mác-Lê nin, tư tưởng HCM với phong trào công nhân và phong trào yêu nước VN (cách mạng nhất và khoa học nhất). Đồng thời là sự vận dụng sáng tạo CN Mác-Lê nin vào đặc điểm của dân tộc VN và là công lao to lớn của lãnh tụ NAQ-HCM trong công cuộc vận động thành lập một chính đảng vô sản ở VN. Công lao to lớn ấy không chỉ là sự lựa chọn con đường CM cho dân tộc VN, mà còn linh hoạt, sáng tạo trong phương thức truyền bá CN Mác-Lê nin và phong trào công nhân VN.
Với tinh thần chủ động sáng tạo và uy tín chính trị lãnh tụ NAQ đã “có sáng kiến” kịp thời giải quyết yêu cầu cấp bách của cách mạng VN là hợp nhất 3 Đảng. Như tác giả Hồng Hà Công (Hà Huy Tập) “Là đã tập hợp được các lực lượng CS phân tán lại thành một khối, nhờ đó mà đưa lại cho những người lao động Đông Dương một đội tiên phong chiến đấu và kiên quyết CM ”.
ĐCSVN thành lập đã khẳng định dứt khoát nội dung, xu hướng phát triển của XHVN là gắn liền độc lập dân tộc với CNXH; là Đảng duy nhất lãnh đạo CM VN, là một bước ngoặt quyết định sự phát triển của dân tộc, tạo những tiền đề và nhân tố hàng đầu quyết định đưa CMVN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
HỎI VÀ ĐÁP