Sau đây là 9 câu hỏi ôn tập và gợi ý đáp án trả lời của môn học: "Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh":Phần 1. Những VĐCB của Chủ nghĩa Mác-Lênin
Câu 1: Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn? Rút ra ý nghĩa phương pháp luận? Liên hệ thực tiễn cách mạng Việt Nam?
Câu 2:
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
của lực lượng sản xuất ? Liên hệ với quá trình phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam ?
Câu 3:
Sản xuất hàng hóa và quy luật giá trị trong
nền sản xuất hàng hóa? Vận dụng quy luật vào phát triển kinh tế ở nước ta?
Câu 4: Liên
minh công - nông - trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay.
Câu 5:
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, liên
hệ với giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển tri thức?
Phần 2. Những VĐCB của tư tưởng HCM
Câu 6: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH. Vận dụng vào Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Câu 7: Nội
dung cơ bản và ý nghĩa quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ, bản chất
giai cấp công nhân của nhà nước VN. Vận dụng TT Hồ Chí Minh vào xây dựng và
hoàn thiện NN pháp quyền XHCN VN. Liên
hệ với địa phương, đơn vị.
Câu 8:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và ý nghĩa đối
với công cuộc đổi mới hiện nay, liên hệ với địa phương, đơn vị ?
Câu 9: Tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ. Thực trạng công tác cán bộ ở địa phương (
đơn vị) đồng chí ? theo đồng chí phải có những biện pháp gì để làm tốt công tác
cán bộ hiện nay?
- Tải về nội dung đáp án (file Word)
- Tải về Sách ebook Tư tưởng Hồ Chí Minh (file epub)
- Tải về Sách ebook ôn tập về Chủ nghĩa Mác - Lênin (file epub)
GỢI Ý ĐÁP ÁN
Câu 1: Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn ? Rút ra ý nghĩa phương pháp luận? Liên hệ thực tiễn cách mạng Việt Nam?
Trả
lời:
1. Khái niệm:
-
Thực tiễn: là hoạt động vật chất, mang tính lịch sử, có mục đích của con người
nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Có
3 hình thức thực tiễn cơ bản:
+ Hoạt động sản xuất vật chất: là những hoạt động sản xuất ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và trao đổi của con người. Ví dụ: xây nhà, cày ruộng, sản xuất xe ô tô…;
+ Hoạt động chính trị - xã hội: là những hoạt động cải tạo các quan hệ chính trị - xã hội. Ví dụ: đấu tranh giải phóng dân tộc; đấu tranh giai cấp, mittinh, biểu tình…;
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học: là hoạt động tạo ra những điều kiện nhân tạo để vận dụng thành tựu khoa học, công nghệ vào nhận thức và cải tạo thế giới.
Ba hình thức thực tiễn trên liên hệ, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất đóng vai trò quyết định, 2 hình thức còn lại ảnh hưởng quan trọng tới sản xuất vật chất.
- Lý luận: là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn và được biểu đạt bằng hệ thống khái niệm, nguyên lý, quy luật, phạm trù.
Lý luận có các đặc trưng: lý luận có tính hệ thống, tính khái quát cao, tính lôgíc chặt chẽ; cơ sở của lý luận là những tri thức, kinh nghiệm thực tiễn, không có tri thức kinh nghiệm thực tiễn thì không có cơ sở để khái quát thành lý luận; lý luận xét về bản chất có thể phản ánh được bản chất sự vật, hiện tượng.
+ Hoạt động sản xuất vật chất: là những hoạt động sản xuất ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và trao đổi của con người. Ví dụ: xây nhà, cày ruộng, sản xuất xe ô tô…;
+ Hoạt động chính trị - xã hội: là những hoạt động cải tạo các quan hệ chính trị - xã hội. Ví dụ: đấu tranh giải phóng dân tộc; đấu tranh giai cấp, mittinh, biểu tình…;
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học: là hoạt động tạo ra những điều kiện nhân tạo để vận dụng thành tựu khoa học, công nghệ vào nhận thức và cải tạo thế giới.
Ba hình thức thực tiễn trên liên hệ, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất đóng vai trò quyết định, 2 hình thức còn lại ảnh hưởng quan trọng tới sản xuất vật chất.
- Lý luận: là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn và được biểu đạt bằng hệ thống khái niệm, nguyên lý, quy luật, phạm trù.
Lý luận có các đặc trưng: lý luận có tính hệ thống, tính khái quát cao, tính lôgíc chặt chẽ; cơ sở của lý luận là những tri thức, kinh nghiệm thực tiễn, không có tri thức kinh nghiệm thực tiễn thì không có cơ sở để khái quát thành lý luận; lý luận xét về bản chất có thể phản ánh được bản chất sự vật, hiện tượng.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và
thực tiễn:
- Vai trò của thực tiễn đối với lý luận:
+
Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức, lý luận. Thông qua hoạt động thực
tiễn, con người tác động vào sự vật, làm cho sự vật bộc lộ thuộc tính, tính
chất, quy luật. Trên cơ sở đó, con người có hiểu biết về chúng. Không có thực
tiễn, không có nhận thức. Ví dụ, chính đo đạc ruộng đất trong chế độ CHNL ở Hi
Lạp – La Mã cổ đại là cơ sở cho định lý Talét, Pitago ra đời.
Thực
tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi nhận thức phải trả lời, trên cơ sở
đó thúc đẩy nhận thức phát triển. Ví dụ, dịnh cúm gà H5N1 đặt ra cho nhân loại
nhiệm vụ nghiên cứu chế tạo vắc xin cho loại dịnh cúm này.
Thực
tiễn còn là nơi rèn luyện giác quan của con người (ví dụ, thông qua sản xuất,
chiến đấu, những cơ quan cảm giác như thính giác, thị giác… được rèn luyện).
Các cơ quan cảm giác được rèn luyện sẽ tạo ra cho chủ thể nhận thức hiệu quả
hơn, đúng đắn hơn.
Thực
tiễn còn là cơ sở chế tạo công cụ, máy móc hỗ trợ con người nhận thức hiệu quả
hơn. Ví dụ, kính thiên văn, máy vi tính… đều được sản xuất, chế tạo trong sản
xuất vật chất. Nhờ những công cụ, máy móc này mà con người nhận thức sự vật
chính xác hơn, đúng đắn hơn. Trên cơ sở đó thúc đẩy nhận thức phát triển.
+
Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Nhận thức của con người bị chi
phối bởi nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại. Ngay từ thủa mông muội, để sống, con
người phải tìm hiểu (nhận thức) thế giới xung quanh. Nghĩa là ngay từ khi con
người xuất hiện trên trái đất, nhận thức của con người bị chi phối bởi nhu cầu
thực tiễn.
Những
tri thức, kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng vào
thực tiễn phục vụ con người. Chính thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá giá trị của
tri thức. Nếu nhận thức không vì thực tiễn mà vì cá nhân, thì nhận thức sớm
muộn sẽ mất phương huớng.
+
Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng, sai của nhận thức, lý luận. Thực tiễn
là tiêu chuẩn khách quan của chân lý. Bởi lẽ chỉ có thông qua thực tiễn, con
người mới “vật chất hóa” được tri thức, “hiện thực hóa” được tư tưởng. Thông
qua quá trình đó, con người có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Thực
tiễn vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối thể hiện ở
chỗ, thực tiễn ở những giai đoạn lịch sử cụ thể là tiêu chuẩn khách quan duy
nhất có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Tính tương đối thể hiện ở chỗ,
bản thân thực tiễn luôn vận động, biến đổi, phát triển. Nên khi thực tiễn đổi
thay thì nhận thức cũng phải đổi thay cho phù hợp. Nghĩa là những tri thức đã
đạt được trước đây, hiện nay vẫn phải được kiểm nghiệm thông qua thực tiễn.
- Vai trò của lý luận đối với thực tiễn:
+ Lý luận đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lý luận khoa học thông qua hoạt động thực tiễn của con người góp phần làm biến đổi thế giới quan và biến đổi chính thực tiễn.
+ Lý luận đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lý luận khoa học thông qua hoạt động thực tiễn của con người góp phần làm biến đổi thế giới quan và biến đổi chính thực tiễn.
+
Lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập hợp quần chúng
để tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo quần chúng.
+
Lý luận đóng vai trò định hướng, dự báo cho hoạt động thực tiễn, giúp hoạt động
thực tiễn chủ động, tự giác, bớt mò mẫm, vòng vo.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Phải
có quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm thực
tiễn yêu cầu:
+
Nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người, xuất phát từ
thực tiễn địa phương, ngành, đất nước.
+
Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải gắn với hành.
+
Phải chú trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện phát triển lý
luận cũng như chủ trương, đường lối, chính sách. Phải lấy thực tiễn làm tiêu
chuẩn để kiểm tra sự đúng, sai của lý luận.
Trong
hoạt động thực tiễn phải chủ động ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm (tuyệt
đối hóa thực tiễn, hạ thấp lý luận) và bệnh giáo điều (tuyệt đối hóa kinh
nghiệm, lý luận, hạ thấp thực tiễn). Trong công tác, mỗi cán bộ phải gương mẫu
thực hiện phương châm “nói đi đôi với làm”, tránh nói một đằng, làm một nẻo;
nói nhiều, làm ít, nói mà không làm.
4. Liên hệ thực tiễn cách mạng Việt Nam
(tự liên hệ)
Câu 2: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất? Liên hệ với quá trình phát triển theo định hướng XHCN ở Việt Nam?
Trả lời:
1. Nêu các khái niệm
- Phương thức sản xuất: là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Ở một giai đoạn lịch sử, một hình thái KT-XH nhất định có một PTSX riêng. PTSX bao gồm 2 mặt có quan hệ mật thiết với nhau: LLSX và QHSX.
- LLSX: là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động với tư liệu sản xuất (gồm công cụ, phương tiện lao động và đối tượng lao động) tạo ra một sức sản xuất nhất định trong sản xuất vật chất.
1. Nêu các khái niệm
- Phương thức sản xuất: là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Ở một giai đoạn lịch sử, một hình thái KT-XH nhất định có một PTSX riêng. PTSX bao gồm 2 mặt có quan hệ mật thiết với nhau: LLSX và QHSX.
- LLSX: là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động với tư liệu sản xuất (gồm công cụ, phương tiện lao động và đối tượng lao động) tạo ra một sức sản xuất nhất định trong sản xuất vật chất.
Các
yếu tố của lực lượng sản xuất có quan hệ với nhau. Sự phát triển của lực lượng
sản xuất là sự phát triển của tư liệu lao động thích ứng với bản thân người lao
động, với trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật của họ.
Năng suất lao động là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đồng thời, xét đến cùng, đó là nhân tố quan trọng nhất cho sự thắng lợi của một trật tự xã hội mới. Ngày nay, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu của khoa học được vận dụng nhanh chóng và rộng rãi vào sản xuất, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất phát triển; những tư liệu sản xuất, những tiến bộ của công nghệ và phương pháp sản xuất là kết quả vật chất của nhận thức tư liệu sản xuất quyết định.
- QHSX: là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất.
QHSX được cấu thành từ 3 yếu tố: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất (chủ sở hữu có thể là 1 người, 1 nhóm người, 1 nhà nước…; đối tượng sở hữu: vốn, năng lượng, tri thức…); quan hệ tổ chức quản lý; quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Ba mặt trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định.
QHSX mang tính ổn định tương đối, còn LLSX luôn vận động, biến đổi không ngừng. LLSX là yếu tố quyết định QHSX.
Năng suất lao động là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đồng thời, xét đến cùng, đó là nhân tố quan trọng nhất cho sự thắng lợi của một trật tự xã hội mới. Ngày nay, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu của khoa học được vận dụng nhanh chóng và rộng rãi vào sản xuất, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất phát triển; những tư liệu sản xuất, những tiến bộ của công nghệ và phương pháp sản xuất là kết quả vật chất của nhận thức tư liệu sản xuất quyết định.
- QHSX: là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất.
QHSX được cấu thành từ 3 yếu tố: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất (chủ sở hữu có thể là 1 người, 1 nhóm người, 1 nhà nước…; đối tượng sở hữu: vốn, năng lượng, tri thức…); quan hệ tổ chức quản lý; quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Ba mặt trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định.
QHSX mang tính ổn định tương đối, còn LLSX luôn vận động, biến đổi không ngừng. LLSX là yếu tố quyết định QHSX.
2. Quy luật về sự
phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX
Đây là một quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển của xã hội loài người. Nội dung quy luật được thể hiện như sau:
a. QHSX được hình thành, biến đổi, phát triển dưới ảnh hưởng quyết định của LLSX
- Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và cách mạng nhất, là nội dung của phương thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, là hình thức xã hội của phương thức sản xuất. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức.
- Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất biến đổi theo cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó làm cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Khi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất phát triển đến mức nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ để hình thành quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất đang phát triển, làm phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời...
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao qua các thời kỳ lịch sử khác nhau đã quyết định sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cao hơn, đưa loài người trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội khác nhau từ thấp lên cao, với những kiểu quan hệ sản xuất khác nhau.
b. Sự tác động trở lại của QHSX với LLSX
- Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ tạo địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, trở thành động lực cơ bản thúc đẩy, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
- Khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu không còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Quan hệ sản xuất, sở dĩ có thể tác động (thúc đẩy hoặc kìm hãm) sự phát triển của lực lượng sản xuất, vì nó quy định mục đích của sản xuất; ảnh hưởng đến thái độ lao động của quảng đại quần chúng; kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ, việc áp dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, việc hợp tác và phân công lao động, v.v..
- Trong xã hội có giai cấp đối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chỉ thông qua đấu tranh giai cấp mới giải quyết được mâu thuẫn đó để đưa xã hội tiến lên.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện sự vận động nội tại của phương thức sản xuất và biểu hiện tính tất yếu của sự thay thế phương thức sản xuất này bằng phương thức sản xuất khác cao hơn. Quy luật này là quy luật phổ biến tác động trong mọi xã hội, làm cho xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao.
3. Liên hệ với quá trình phát triển theo định hướng XHCN ở Việt Nam
Nước ta lựa chọn con đường đi lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nước nông nghiệp lạc hậu, do đó xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài và đầy khó khăn, phức tạp. Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ, lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ và có những yếu tố vượt trước ảo tưởng, đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trước thời kỳ đổi mới năm 1986, nước ta đã mắc phải những lệch lạc, sai lầm chủ quan, đưa ra QHSX không đồng bộ, vượt trước ảo tưởng so với trình độ phát triển của LLSX. Chủ trương xây dựng sớm một nền kinh tế XHCN thuần nhất với 2 hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể trong khi trình độ LLSX còn thấp kém – làm trái quy luật. Từ những sai lầm trong nhận thức đã dẫn tới những sai lầm trong chỉ đạo thực tiễn (xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất một cách ồ ạt, trong khi chế độ đó đang tạo địa bàn cho sự phát triển LLSX; xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất một cách tràn lan, trong khi trình độ LLSX còn thấp). Những sai lầm đó đẩy nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Tình hình thực tế của nước ta đòi hỏi phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Để xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã chủ trương chuyển từ một nền kinh tế thuần nhất XHCN sang nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Từng bước xã hội hoá xã hội chủ nghĩa, quá trình đó được thực hiện không phải bằng gò ép mà được thực hiện từng bước thông qua sự hỗn hợp các hình thức sở hữu như công ty cổ phần, chủ nghĩa tư bản nhà nước, các hình thức hợp tác xã v.v. để dần dần hình thành các tập đoàn kinh doanh lớn, trong đó các đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể là nòng cốt. Chúng ta chỉ bỏ qua những gì của xã hội cũ không còn phù hợp với xã hội mới thay thế và không đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn; chúng ta chủ trương thực hiện sự chuyển hoá cái cũ thành cái mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là một quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển của xã hội loài người. Nội dung quy luật được thể hiện như sau:
a. QHSX được hình thành, biến đổi, phát triển dưới ảnh hưởng quyết định của LLSX
- Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và cách mạng nhất, là nội dung của phương thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, là hình thức xã hội của phương thức sản xuất. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức.
- Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất biến đổi theo cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó làm cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Khi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất phát triển đến mức nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ để hình thành quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất đang phát triển, làm phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời...
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao qua các thời kỳ lịch sử khác nhau đã quyết định sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cao hơn, đưa loài người trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội khác nhau từ thấp lên cao, với những kiểu quan hệ sản xuất khác nhau.
b. Sự tác động trở lại của QHSX với LLSX
- Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ tạo địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, trở thành động lực cơ bản thúc đẩy, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
- Khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu không còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Quan hệ sản xuất, sở dĩ có thể tác động (thúc đẩy hoặc kìm hãm) sự phát triển của lực lượng sản xuất, vì nó quy định mục đích của sản xuất; ảnh hưởng đến thái độ lao động của quảng đại quần chúng; kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ, việc áp dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, việc hợp tác và phân công lao động, v.v..
- Trong xã hội có giai cấp đối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chỉ thông qua đấu tranh giai cấp mới giải quyết được mâu thuẫn đó để đưa xã hội tiến lên.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện sự vận động nội tại của phương thức sản xuất và biểu hiện tính tất yếu của sự thay thế phương thức sản xuất này bằng phương thức sản xuất khác cao hơn. Quy luật này là quy luật phổ biến tác động trong mọi xã hội, làm cho xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao.
3. Liên hệ với quá trình phát triển theo định hướng XHCN ở Việt Nam
Nước ta lựa chọn con đường đi lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nước nông nghiệp lạc hậu, do đó xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài và đầy khó khăn, phức tạp. Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ, lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ và có những yếu tố vượt trước ảo tưởng, đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trước thời kỳ đổi mới năm 1986, nước ta đã mắc phải những lệch lạc, sai lầm chủ quan, đưa ra QHSX không đồng bộ, vượt trước ảo tưởng so với trình độ phát triển của LLSX. Chủ trương xây dựng sớm một nền kinh tế XHCN thuần nhất với 2 hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể trong khi trình độ LLSX còn thấp kém – làm trái quy luật. Từ những sai lầm trong nhận thức đã dẫn tới những sai lầm trong chỉ đạo thực tiễn (xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất một cách ồ ạt, trong khi chế độ đó đang tạo địa bàn cho sự phát triển LLSX; xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất một cách tràn lan, trong khi trình độ LLSX còn thấp). Những sai lầm đó đẩy nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Tình hình thực tế của nước ta đòi hỏi phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Để xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã chủ trương chuyển từ một nền kinh tế thuần nhất XHCN sang nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN nhằm phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây dựng cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Từng bước xã hội hoá xã hội chủ nghĩa, quá trình đó được thực hiện không phải bằng gò ép mà được thực hiện từng bước thông qua sự hỗn hợp các hình thức sở hữu như công ty cổ phần, chủ nghĩa tư bản nhà nước, các hình thức hợp tác xã v.v. để dần dần hình thành các tập đoàn kinh doanh lớn, trong đó các đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể là nòng cốt. Chúng ta chỉ bỏ qua những gì của xã hội cũ không còn phù hợp với xã hội mới thay thế và không đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn; chúng ta chủ trương thực hiện sự chuyển hoá cái cũ thành cái mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Câu 3: Sản xuất hàng hóa và quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa? Vận dụng quy luật vào phát triển kinh tế ở nước ta?
1.
Hàng hóa và sản xuất hàng hóa:
Lịch sử phát triển của nền sản xuất
đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế, đó là sản xuất tự cung tự cấp và
sản xuất hàng hóa.
a.
Khái niệm:
- Hàng hóa: Hàng hóa là sản phẩm của người lao động có thể thỏa mãn
nhu cầu nào đó của con người và dùng để trao đổi với nhau.
- Sản xuất hàng hóa: Là sản xuất ra sản phẩm để bán. Hay nói cách
khác, sản xuất hàng hóa là cách thức tổ chức sản xuất mà trong đó, sản phẩm làm
ra không phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất
ra nó mà để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác thông qua trao đổi, mua
bán.
b.
Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa:
- Có sự phân công lao động xã hội: Phân công lao động xã hội là sự
chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động vào những ngành, những lĩnh vực
khác nhau của nền sản xuất xã hội.
Phân công lao động xã hội làm cho
mỗi người sản xuất, mỗi cơ sở sản xuất chỉ sản xuất ra một loại sản phẩm nhất
định, song trong cuộc sống của con người thì có nhiều nhu cầu khác nhau, vì
vậy, để đáp ứng nhu cầu đó, họ phải có mới liên hệ, phụ thuộc vào nhau, trao
đổi sản phẩm cho nhau. Như vậy, lao động xã hội là cơ sở, tiền đề để sản xuất
hàng hóa.
- Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất: Sự
tách biệt này là do quan hệ sở hữu khác nhau và sự phát triển xã hội hóa khác
nhau về tư liệu sản xuất quy định. Do đó, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu
của họ và do họ chi phối, người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải
thông qua trao đổi, mua bán.
Đó là hai điều kiện cần và đủ của
sản xuất hàng hóa, nếu thiếu một trong hai điều kiện thì không có sản xuất hàng
hóa và sản phẩm lao động không mang hình thái hàng hóa.
c. Ưu thế của sản xuất hàng hóa:
Sản xuất hàng hóa ra đời là một bước
ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đưa loài người
thoát khỏi tình trạng mông muội, xóa bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh
chóng lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội.
Thứ
nhất: Sản xuất hàng hóa ra đời khai thác được những lợi thế tự nhiên, xã
hội, kỹ thuật của từng người, từng địa phương, từng vùng, các quốc gia khác.
Thứ
hai: Quy mô sản xuất được mở rộng tạo điều kiện cho việc ứng dụng khoa học
kỹ thuật vào sản xuất thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ
ba: Sự tác động của các quy luật: Quy luật giá trị, quy luật cung - cầu,
quy luật cạnh tranh… buộc người sản xuất phải luôn năng động, nhạy bén, cải
tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
Thứ
tư: Sản xuất hàng hóa phát triển làm cho đời sống vật chất và văn hóa tinh
thần ngày càng được tăng cao, phong phú và đa dạng.
Song bên cạnh đó, sản xuất hàng hóa
cũng tồn tại những mặt trái của nó như: Phân hóa giàu nghèo, tiềm ẩn nguy cơ
khủng hoảng, phá hoại môi trường…
d.
Hai thuộc tính của hàng hóa:
Thứ
nhất: Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa đó và nó có
thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.
Giá trị của hàng hóa là thuộc tính
tự nhiên của hàng hóa đó quyết định. Khi xã hội loài người càng phát triển thì
càng phát hiện ra nhiều thuộc tính tự nhiên của vật phẩm và lợi dụng thuộc tính
tự nhiên đó để tạo ra những giá trị sử dụng khác nhau.
Là giá trị sử dụng cho xã hội, không
phải dành cho người sản xuất ra nó mà dành cho người mua nó thông qua trao đổi
mua bán.
Thứ
hai: Giá trị trao đổi của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện bên
ngoài của giá trị, giá trị là nội dung, cơ sở của giá trị trao đổi. Đồng thời
giá trị biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa. Cũng
chính vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử, nó tồn tại trong nền kinh tế
hàng hóa.
Hai thuộc tính của hàng hóa có quan
hệ chặt chẽ, vừa mâu thuẫn nhưng cũng vừa thống nhất với nhau.
đ.
Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa:
Lao động của sản xuất hàng hóa vừa
mang tính chất lao động cụ thể vừa mang tính chất là lao động trừu tượng.
Lao
động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề
nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công
cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động khác nhau.
Lao
động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những
hình thức lao động cụ thể của nó, đó chính là sự tiêu phí sức lao động nói
chung của người sản xuất hàng hóa.
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị
của hàng hóa. Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội trừu tượng của người sản
xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó chính là hai mặt của sản xuất hàng
hóa.
Lao động cụ thể và lao động trừu
tượng vừa thống nhất vừa mâu thuẫn. Thống nhất biểu hiện chúng là hai mặt của
cùng một lao động sản xuất hàng hóa. Mâu thuẫn biểu hiện ở chỗ lao động cụ thể
tạo ra một giá trị sử dụng nhất định cho xã hội, nhưng với tư cách là lao động
trừu tượng, sự hao phí sức lao động của người sản xuất hàng hóa nó không thể
phù hợp với mức hao phí lao động của xã hội.
Mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất
hàng hóa - mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội biểu hiện ở lao
động trừu tượng và lao động cụ thể, giữa giá trị sử dụng và giá trị của hàng
hóa. Những mâu thuẫn đó vừa thúc đẩy xã hội phát triển vừa chứa đựng nguy cơ
khủng hoảng kinh tế.
e.
Lượng giá trị của hàng hóa:
Lượng giá trị của hàng hóa là lượng
lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa, được đo bằng thời gian lao động để
sản xuất ra hàng hóa.
Lượng giá trị xã hội của hàng hóa
không tính bằng thời gian lao động cá biệt mà tính bằng thời gian lao động xã
hội cần thiết.
Thời gian lao động xã hội cần thiết
là thời gian để sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó trong điều kiện sản xuất
bình thường, trình độ kỹ thuật và cường độ lao động bình thường trong xã hội
đó.
Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá
trị của hàng hóa: Năng suất lao động, cường độ lao động (mức độ giản đơn hay
phức tạp của lao động).
2. Quy luật giá trị:
a.
Nội dung quy luật giá trị:
- Nội dung của quy luật giá trị: là
quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Quy luật giá trị yêu
cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị của nó tức là dựa
trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiêt. Cụ thể:
Trong sản xuất, quy luật giá trị đòi
hỏi người sản xuất phải căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trong lưu thông, việc trao đổi phải
thực hiện theo nguyên tắc ngang giá.
- Cơ chế tác động của quy luật giá
trị đối với nền kinh tế hàng hóa là thông qua sự lên xuống của giá cả thị
trường.
- Tác dụng của quy luật giá trị:
+ Điều tiết sản xuất và lưu thông
hàng hóa:
Trong sản xuất: thể hiện ở chỗ thu
hút vốn vào các ngành sản xuất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Trong lưu thông: thể hiện ở chỗ thu
hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, do đó, góp phần làm
cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
+ Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp
lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động.
Các hàng hóa được sản xuất trong
những điều kiện khác nhau nên có giá trị cá biệt khác nhau. Nhưng trên thị
trường đều phải trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Người sản
xuất nào có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội thì sẽ có lợi. Vì vậy, mỗi
người sản xuất đều tìm cách giảm giá trị cá biệt hàng hóa của mình xuống dưới
mức giá trị xã hội bằng cách cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất để tăng
năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt đã làm cho năng suất lao động xã
hội không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống.
+ Phân hóa những người sản xuất
thành giàu nghèo, làm xuất hiện quan hệ sản xuất TBCN. Trong sản xuất hàng hóa,
hàng hóa của những người sản suất nào có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã
hội thì người đó có lợi, giàu có, mở rộng sản xuất kinh doanh, trở thành ông chủ,
ngược lại thì sẽ không có lợi, thua lỗ, phá sản và trở thành người lao động làm
thuê. Chính do tác động của quy luật giá trị đã làm cho sản xuất hàng hóa thực
sự trở thành khởi điểm ra đời của CNTB.
3.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật giá trị (vận dụng vào phát triển kinh tế
nước ta):
Trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cần phát huy những tác dụng tích cực, hạn
chế những tác dụng tiêu cực của quy luật giá trị, nhằm phát triển nền kinh tế
nước ta theo định hướng XHCN.
- Thứ nhất là nền kinh tế nước ta đang xây dựng khác về bản chất so
với kinh tế TBCN, do đó, phải quán triệt quan điểm, nguyên tắc cơ bản của sự
vận dụng một cách đúng đắn, sát hợp quy luật giá trị vào điều kiện cụ thể của
đất nước, phục vụ cho việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN;
tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường
quốc phòng - an ninh.
- Thứ hai là quán triệt quan điểm trên, đề ra các chính sách kinh tế
thích hợp, hình thành một bước quan trọng thể chế hóa kinh tế thị trường định
hướng XHCN.
+ Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần
hóa mạnh hơn nữa; khuyến khích phát triển mạnh kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức kinh tế cổ phần; nâng cao
sức cạnh tranh của doanh nghiệp; nâng cao hiệu quả đầu tư bằng vốn ngân sách.
+ Tạo lập và phát triển đồng bộ các
loại thị trường. Tiếp tục chủ động hội nhập sâu rộng hơn nữa, thực hiện có hiệu
quả các cam kết theo quy định của tổ chức thương mại thế giới.
+ Trong nền kinh tế hàng hóa, dưới
tác động của quy luật giá trị và các quy luật kinh tế khác, cạnh tranh sẽ ngày
càng gay gắt. Ngoài những tác động tích cực, cạnh tranh cũng để lại những hạn
chế như làm tăng sự phân hóa giàu - nghèo và những bất công xã hội.
Để đảm bảo quyền lợi thỏa đáng của
người lao động trong các doanh nghiệp, Nhà nước cần hoàn chỉnh Bộ Luật Lao động
và các chế độ liên quan đến người lao động. Tiếp tục ban hành và hoàn chỉnh các
quy định về chế độ tiền lương, chế độ làm việc, bảo hộ, an toàn lao động, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp...
Tóm lại: Quy luật giá trị là quy
luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Nó quy định
việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần
thiết. Quy định ấy là khách quan, bảo đảm sự công bằng, hợp lý, bình đẳng giữa
những người sản xuất và trao đổi hàng hóa. Quy luật này đang hoạt động và phát
huy tác dụng trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Song quy luật này cũng
có những tác động phức tạp đến sản xuất hàng hóa và xã hội. Vì vậy, chúng ta
cần phát huy những tác dụng tích cực, hạn chế những tác dụng tiêu cực của quy
luật giá trị, nhằm phát triển nền kinh tế nước ta theo định hướng XHCN.
Câu 4: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân? Liên hệ với giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển tri thức?
1.
Sứ mệnh lịch sử của GCCN:
Sứ mệnh lịch sử của GCCN là phạm trù cơ bản
nhất của chủ nghĩa xã hội khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của GCCN là
một trong những cống hiến vĩ đại của chủ nghĩa Mác. Để hiểu rõ sứ mệnh lịch sử
của GCCN, trước hết, cần làm rõ khái niệm giai cấp công nhân.
Dù khái
niệm giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau nhưng theo Mác và Ănghen vẫn
chỉ mang hai thuộc tính cơ bản:
- Về
phương thức lao động, PTSX: đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp
vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã
hội hóa cao.
- Về vị
trí trong QHSX tư bản chủ nghĩa: đó là những người lao động không có tư liệu
sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá
trị thặng dư. Đối diện với nhà tư bản, công nhân là những người lao động tự do,
nhưng để kiếm sống họ phải bán sức lao động.
- Giai
cấp công nhân trong chế độ tư bản đương đại, một mặt, vẫn mang bản chất và đặc
điểm truyền thống, mặt khác, giai cấp công nhân có thêm một số điểm mới: một bộ
phận công nhân được trí tuệ hóa với tri thức và kỹ năng lao động cao, luôn gắn
bó với cách mạng khoa học công nghệ hiện đại… mặc dù vậy, cũng không làm thay
đổi địa vị của giai cấp công nhân.
- Giai
cấp công nhân trong chế độ xã hội chủ nghĩa có những điểm tương đồng với giai
cấp công nhân thế giới, tuy nhiên, cũng có những nét khác biệt: giai cấp công
nhân trở thành giai cấp lãnh đạo dân tộc, cùng với nhân dân lao động, giai cấp
công nhân trở thành người làm chủ xã hội, cùng nắm giữ và sử dụng tư liệu sản
xuất chủ yếu, phân phối theo nguyên tắc công bằng, bình đẳng, là hạt nhân của
khối liên minh công - nông - trí thức, có hệ tư tưởng là giá trị chủ đạo của
đời sống văn hóa tư tưởng của xã hội.
Từ đó
có thể định nghĩa giai cấp công nhân như sau: Giai cấp công nhân là một tập
đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của
nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính
xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp
hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải
tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ở các nước tư bản, GCCN là những người
không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai cấp
tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ
nghĩa, họ là người đã cùng nhân dân lao động làm chủ tư liệu sản xuất chủ yếu
và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội, trong đó, có
lợi ích chính đáng của họ.
*
Nội dung sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của GCCN:
Các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định giai cấp công nhân hiện đại là
giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất, có khả năng tổ chức và lãnh đạo
toàn thể nhân dân lao động tiến hành cuộc cải biến cách mạng từ hình thái kinh
tế - xã hội tư bản sang hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, giải
phóng nhân loại khỏi áp bức bất công và mọi hình thức bóc lột. Cụ thể:
- Nội
dung kinh tế: GCCN trở thành lực lượng sản xuất cơ bản và là giai cấp quyết
định tồn tại xã hội hiện đại và qua đó, tạo cơ sở vật chất cho sự ra đời của xã
hội xã hội chủ nghĩa.
- Nội
dung chính trị: dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, GCCN cùng nhân dân lao động
tiến hành đấu tranh giành chính quyền, xác lập, bảo vệ và phát triển chế độ chủ
nghĩa xã hội, quyền làm chủ của nhân dân…
- Nội
dung văn hóa - tư tưởng: GCCN đấu tranh với hệ tư tưởng phi vô sản, xác lập vị
trí thống trị của hệ tư tưởng GCCN, xây dựng nền văn hóa và con người mới.
* Điều kiện khách quan quy định SMLS toàn thế
giới của giai cấp công nhân
- Địa
vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân: giai cấp đại biểu cho lực lượng sản
xuất và phương thức sản xuất tiên tiến mang tính chất xã hội hoá ngày càng cao,
nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại khách quan quy định và tạo ra những
đặc điểm phù hợp với năng lực của một giai cấp thực hiện sứ mệnh lịch sử; gia
nhập vào giai cấp công nhân nhiều bộ phận của xã hội, đặc biệt là trí thức và
qua đó góp phần phát triển kinh tế tri thức.
- Mâu thuẫn cơ bản của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa và quá trình vận động của nó khách quan đặt ra nhu
cầu thay đổi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự tồn tại của chế độ tư bản
chủ nghĩa tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh
đạo, tổ chức thực hiện.
- Mâu thuẫn cơ bản về lợi ích giữa
giai cấp công nhân và giai cấp tư sản chỉ có thể được giải quyết bằng quá trình
thực hiện nội dung chính trị của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: lật đổ
chế độ tư bản, xoá bỏ chế độ bóc lột và xác lập từng bước quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa.
- Nhu cầu phát triển nhanh, nhân bản
và bền vững của thế giới hiện đại cũng là điều kiện khách quan quy định sứ mệnh
lịch sử giai cấp công nhân.
Học thuyết Mác - Ăngghen về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự luận chứng khoa học về
địa vị kinh tế - xã hội và vai trò lịch sử của giai cấp công nhân,
về những mục tiêu và con đường để giai cấp đó hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình. Học thuyết ấy chứng minh rằng, sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân được quy định bởi những điều kiện kinh tế - xã
hội khách quan: Đó là “cùng với sự phát triển của đại công nghiệp,
chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiếm
hữu sản phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản.
Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh ra những người đào huyệt chôn
chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp
vô sản đều là tất yếu như sau”.
Luận thuyết về sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân đã được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày sâu sắc
trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản trên
những quan điểm cơ bản như sau:
- Do địa vị kinh tế - xã hội
khách quan, giai cấp công nhân là giai cấp gắn với lực lượng sản xuất
tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản. Và, với tính cách như vậy, nó
là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Sau khi giành chính quyền, giai cấp công nhân, đại biểu cho sự tiến
hoá tất yếu của lịch sử, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã
hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
- Giai cấp công nhân, con đẻ của
nền sản xuất công nghiệp hiện đại được nền công nghiệp hiện đại rèn
luyện, đoàn kết và tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng
mạnh. Bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột nặng nề, họ là giai cấp
trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản, và xét về bản chất họ là
giai cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột
tư bản chủ nghĩa. Điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định
rằng, họ chỉ có thể tự giải phóng bằng cách giải phóng toàn xã
hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không
mất gì ngoài xiềng xích và được cả thế giới về mình.
- Địa vị kinh tế - xã hội
khách quan không chỉ khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp
cách mạng triệt để nhất mà còn tạo cho họ khả năng làm việc đó.
Đó là khả năng đoàn kết thống nhất giai cấp, khả năng đạt tới sự
giác ngộ về địa vị lịch sử của mình, khả năng hành động chính trị
để từng bước đạt mục tiêu cách mạng. Đó là khả năng đoàn kết các
giai cấp khác trong cuộc đấu tranh chống tư bản. Đó là khả năng đi đầu
trong cuộc đấu tranh của toàn thể nhân dân lao động và của dân tộc vì
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là khả năng đoàn kết
toàn thể giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc
tế theo chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Lịch sử thế giới đã chứng minh
những kết luận của C.Mác, Ph.Ăngghen và Lênin về sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân là đúng đắn. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình không phải diễn ra
một cách bằng phẳng, thuận buồm xuôi gió.
Ngày nay, kẻ thù của chủ nghĩa
xã hội và một số người cơ hội, xét lại đang phủ nhận thuyết
Mác-Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Theo họ, giai
cấp công nhân ngày nay đã “teo đi”, đã “tan biến” vào các giai tầng xã
hội khác; địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân đã thay đổi
nhiều, phần đông trong giai cấp này đã “trung lưu hoá” v.v.. Thực tế
chứng minh rằng, quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa dù có mở
rộng và hiện đại hoá đến đâu, những hình thức của nó có thay đổi
thế nào chăng nữa thì nó vẫn không ngừng tái sinh ra quan hệ tư bản
chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX trong lòng chế độ tư bản đang
diễn ra hết sức gay gắt. Giai cấp tư sản đã và đang tìm mọi cách để
điều chỉnh các quan hệ tư bản chủ nghĩa hòng cứu vãn chế độ thống
trị của chúng. Chúng có thể đạt được một số thành tựu và kết quả
nào đấy nhưng vẫn không sao khắc phục những mâu thuẫn cơ bản của xã
hội tư bản. Ở nơi này hay nơi khác, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vẫn
còn khả năng phát triển, nhưng phải thường xuyên đương đầu với các
cuộc khủng hoảng nặng nề, với nhiều cơn suy thoái và nạn thất
nghiệp thường xuyên không tránh khỏi của hàng chục triệu người. Phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân tuy đang đứng trước những thử
thách hết sức nặng nề, nhưng bức tranh toàn cảnh của sự phát triển
lực lượng sản xuất thế giới vẫn đang chuẩn bị những tiền đề khách
quan cho giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình dù có
trải qua những bước thăng trầm, quanh co, nhưng nó vẫn tiếp tục diễn
ra theo quy luật khách quan của lịch sử. Đặc điểm lớn nhất của thời
đại hiện nay là giai cấp công nhân đã, đang và sẽ vươn lên nắm quyền
lực nhà nước bằng nhiều con đường khác nhau. Bởi lẽ, nó là giai cấp
duy nhất đại diện cho lực lượng sản xuất hiện đại, cho phương thức
sản xuất tiên tiến. Giai cấp công nhân là người đại diện cho lợi ích
và quyền lực của nhân dân, của nhân loại tiến bộ.
Trong các nước đang phát triển,
giai cấp công nhân đang không ngừng tăng nhanh cùng với quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Tuy nhiên, điều quyết định
việc hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chủ yếu không
phải là số lượng, mặc dù số lượng là yếu tố cần thiết. Trên thực
tế, sức mạnh của giai cấp công nhân lớn hơn nhiều so với số lượng
của nó, nếu giai cấp công nhân thống nhất được lực lượng của chính
giai cấp mình và thực hiện được sự liên minh chặt chẽ với quần chúng
lao động bị áp bức.
Phải chăng, hiện nay trong các
nước tư bản phát triển, giai cấp công nhân không còn bị bóc lột như
trước, đã “trung lưu hoá” và có cổ phần trong xí nghiệp, cho nên giai
cấp công nhân không có tinh thần cách mạng như trước, không còn có thể
đóng vai trò lãnh đạo cách mạng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư
bản. Chủ nghĩa Mác-Lênin không quan niệm một giai cấp có khả năng lãnh
đạo cách mạng vì nó nghèo khổ nhất. Mưu toan đem sự nghèo khổ để
luận giải sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự xuyên tạc
trắng trợn những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Đúng là ở những nước tư bản
phát triển, đời sống của một bộ phận không nhỏ trong GCCN đã được cải
thiện. Họ có thu nhập cao. Một bộ phận công nhân ở các nước trên đã
có mức sống “trung lưu hoá”. Song điều đó không có nghĩa là công nhân
ở các nước ấy không còn bị bóc lột hoặc bị bóc lột không đáng kể.
Một số công nhân có cổ phần trong công ty tư bản, hoặc có một số tư
liệu sản xuất phụ nào đó. Nhưng tất cả tình hình ấy không hề không làm thay đổi một sự
thật là toàn bộ tư liệu sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn nằm trong tay
giai cấp tư sản. Giai cấp công nhân về cơ bản vẫn không có tư liệu sản
xuất vẫn phải bán sức lao động cho giai cấp tư sản, cả sức lao động
trí óc lẫn chân tay để kiếm sống, do đó, vẫn bị bóc lột giá trị
thặng dư. Bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi.
Hiện nay, với sự ứng dụng của thành quả khoa học - công nghệ hiện
đại vào sản xuất, người công nhân phải lao động với cường độ cao (cả
lao động trí tuệ và cơ bắp) đã tạo ra một khối lượng sản phẩm gấp
bội so với trước đây. Do đó, các ông chủ tư bản đã bóc lột giá trị
thặng dư của giai cấp công nhân nhiều hơn trước. Họ chỉ bớt một phần
rất nhỏ lợi nhuận để cải thiện đời sống công nhân. Sự thật là, ở
chính ngay ở nước tư bản phát triển, tình trạng công nhân nghèo khổ,
thất nghiệp, mù chữ, thiếu nhà ở, sống trong điều kiện bấp bênh vẫn
chiếm một tỷ lệ không nhỏ.
Một thực tế đã, đang và còn
tồn tại ngày càng sâu sắc ở các nước tư bản phát triển, đó là sự
bất công, bất bình đẳng và thu nhập càng cách xa giữa giai cấp tư
sản với giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Dù có cố gắng
tìm cách “thích nghi” và mọi biện pháp xoa dịu nhưng giai cấp tư sản
không thể khắc phục được mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Thực
tế, cuộc đấu tranh giai cấp công nhân vẫn diễn ra ở các nước tư bản
chủ nghĩa dưới nhiều hình thức phong phú, với những nội dung khác
nhau.
Cũng có quan điểm cho rằng,
luận điểm của Mác về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trước
đây có thể đúng nhưng không còn đúng trong thời đại ngày nay. Theo họ
thì, thời đại ngày nay là thời đại của nền “văn minh trí tuệ”, của
“kinh tế tri thức”, do đó trí thức mới là lực lượng tiền phong, có
vai trò lãnh đạo cách mạng.
Tất nhiên, trí thức có vai trò
quan trọng trong mọi thời đại. Trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới,
vai trò trí thức ngày càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Song, trí
thức không thể đóng vai trò lãnh đạo thay thế giai cấp công nhân. Bởi
lẽ:
- Trong xã hội, trí thức chỉ
là một tầng lớp xã hội đặc biệt và không thuần nhất. Trí thức chưa
bao giờ và không bao giờ là một giai cấp. Nó không đại biểu cho một
phương thức sản xuất độc lập, không phải là một lực lượng kinh tế,
chính trị độc lập trước các giai cấp và tầng lớp xã hội khác. Do
đó, tri thức không có hệ tư tưởng riêng. Nó chỉ theo và chịu ảnh
hưởng hệ tư tưởng của giai cấp mà nó phục vụ. Do địa vị kinh tế -
xã hội của nó, trí thức không thể là người lãnh đạo cách mạng, mặc
dù tất cả các giai cấp thống trị trong lịch sử đều cần đến trí
thức và đào tạo ra một đội ngũ trí thức của mình để thực hiện vai
trò của nó đối với xã hội.
- Trí thức không có lợi ích
đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản. Dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, trí thức cũng là người làm thuê và bị bóc lột, nhưng lại là
tầng lớp làm thuê đặc biệt, được giai cấp tư sản đào tạo, sử dụng và
có một bộ phận được chế độ tư bản ưu đãi. Trí thức không phải là
tầng lớp xã hội có tinh thần cách mạng triệt để như giai cấp công
nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản.
- Thực tế lịch sử cho thấy chưa
bao giờ có một tầng lớp trí thức nào có thể thay thế một giai cấp
để lãnh đạo một cuộc cách mạng xã hội nhằm thay thế chế độ này bằng
một chế độ xã hội khác. Trí thức bao giờ cũng là trí thức của
một giai cấp nhất định và thường là của giai cấp thống trị xã hội.
2.
Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới:
- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Việt Nam:
Ở nước
ta, “giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát
triển, bao gồm những người lao động chân tay và lao động trí óc, làm công hưởng
lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất
kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân Việt Nam được khẳng định trong văn kiện Đảng: “Giai cấp công nhân
nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội
tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản
xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
- Giai cấp công nhân Việt Nam đi đầu trong
sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức và hội nhập quốc tế:
Trong
quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, GCCN VN đã có những mặt mạnh,
những thuận lợi, đó là: do điều kiện hoàn cảnh đất nước, GCCN VN sớm có ý thức
sâu sắc về sự gắn bó lợi ích gai cấp và lợi ích dân tộc, giai cấp công nhân
Việt Nam được làm chủ vận mệnh và quá trình phát triển của mình, được Đảng và
Nhà nước quan tâm hỗ trợ, là giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của xã hội. Từ
năm 1986 đến nay, giai cấp công nhân Việt Nam đã có sự trưởng thành cả về số
lượng, cơ cấu và chất lượng. Gần 30 năm đổi mới, GCCN VN đã có những bước
chuyển biến quan trọng. GCCN VN luôn xứng đáng với vị trí là đội tiền phong của
Đảng Cộng sản Việt Nam, là giai cấp tiên phong trong xây dựng chủ nghĩa xã hội,
là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh
tế quốc tế.
Tuy
nhiên, GCCN VN cũng còn tồn tại một số hạn chế, bất cập cần sớm khắc phục như:
Sự phát triển của GCCN chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH và hội
nhập quốc tế. Đảng có chú trọng xây dựng GCCN nhưng chưa đầy đủ, chưa ngang tầm
với vị trí, vai trò của GCCN trong thời kỳ đổi mới. Chính sách pháp luật của
Nhà nước còn hạn chế, tổ chức chính trị - xã hội trong GCCN còn nhiều yếu kém…
Từ
những thuận lợi và hạn chế trên, Đảng ta đã đề ra những quan điểm chỉ đạo,
nhiệm vụ, biện pháp và giải pháp lớn để phát triển GCCN nước ta để xứng đáng là
giai cấp đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đai hóa.
Trong
qua trình lãnh đạo đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, GCCN
VN đã và đang đứng trước những thời cơ: Cách mạng khoa học công nghệ, hội nhập
kinh tế quốc tế, song cũng có những thử thách to lớn như cơ sở vật chất kỹ
thuật còn yếu kém, kinh tế thị trường còn nhiều hạn chế, nguy cơ tụt hậu và
chệch hướng xã hội chủ nghĩa…
*
Phương hướng, mục tiêu xây dựng GCCN nước ta:
- Giữ
vững quyền lãnh đạo của GCCN thông qua vai trò của Đảng, hoàn thiện hệ thống
pháp luật về GCCN, gắn kết xây dựng, phát huy sức mạnh của liên minh công nông
và đội ngũ tri thức trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường quan hệ
hợp tác quốc tế.
- Đẩy
mạnh CNH, HĐH gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ tay
nghề công nhân, bồi dưỡng trình độ chính trị, ý thức công nhân và tinh thần dân
tộc, ý chí vươn lên…
- Xây
dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xây dựng các
tổ chức trong GCCN vững mạnh, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của tổ
chức chính trị trong công nhân, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp, nâng cao
hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng.
Câu 5: Liên minh công - nông - trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay?
Lý luận về liên minh công nông và
các tầng lớp lao động khác là một trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin. Mác và Ănghen chỉ ra rằng nhiều
cuộc đấu tranh của công nhân bị thất bại chủ yếu là vì không có liên minh với
“bạn đồng minh tự nhiên” của mình là nông dân. Do vậy, các cuộc cách mạng vô
sản đã trở thành “bài đơn ca ai điếu”. Lênin đã vận dụng và phát triển lý luận
này của Mác - Ănghen và khẳng định rõ: “Chuyên chính vô sản là một hình thức
đặc biệt của liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những
người lao động, với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư
sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức…)”. Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận
dụng đúng đắn sáng tạo vào Việt Nam đã góp phần làm nên những thắng lợi to lớn
trong công cuộc chống ngoại xâm cũng như trong công cuộc đổi mới.
*
Tính tất yếu của liên minh công - nông - trí thức trong TKQĐ lên CNXH:
Liên minh công - nông - trí trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự đoàn kết, hợp lực, liên kết… giữa
GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, nhằm thực hiện nhiệm vụ, giải
quyết các vấn đề vì lợi ích không chỉ cho một lực lượng mà còn cho các lực
lượng tham gia đồng thời góp phần vào sự nghiệp chung xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Liên
minh công - nông - trí trong thời kỳ quá độ là một tất yếu:
- Hiện nay hầu hết các nước trên thế
giới, trong đó có những nước ở trong TKQĐ lên CNXH, mức độ phân công lao động
còn rõ rệt giữa công - nông và trí. Trong đó, công nhân vẫn là lực lượng cơ bản
trong sản xuất vật chất gắn với quy trình công nghiệp hiện đại; dù còn là sản
xuất nhỏ nhưng nông dân vẫn là LLSX chủ yếu ra lương thực thực phẩm cho xã hội,
trí thức là lực lượng nòng cốt trong khoa học và đời sống tinh thần. Do vậy,
một xã hội phát triển bình thường cần có sự liên kết của các hoạt động của công
- nông - trí.
- Nội dung của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội còn phong phú và phức tạp, đó là một quá trình cải biến toàn
diện vì thế, rất cần đến nguồn lực con người, trong đó, đông đảo là nông dân,
công nhân và trí thức.
- Nông dân, công nhân và trí thức có
chung nhu cầu, khát vọng… nên họ thấu hiểu được tâm tư nguyện vọng của nhau, vì
vậy, đoàn kết liên minh với nhau là tất yếu vì lợi ích chung, trong đó, có cả
lợi ích của mỗi giai tầng.
- Cách mạng xã hội là sự nghiệp của
QCND, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là ngày hội của quần chúng, trong đó, công
nhân, nông dân, trí thức chiếm phần đông trong nhân dân.
- Ngày nay trong xu thế toàn cầu hóa
nền kinh tế đòi hỏi các dân tộc phát triển theo định hướng XHCN phải có một nền
kinh tế công nông nghiệp hiện đại với khoa học và công nghệ tiên tiến, do đó,
rất cần liên minh công - nông - trí thức vững chắc.
*
Tầm quan trọng của liên minh công - nông - trí thức trong TKQĐ lên CNXH:
Liên minh công - nông - trí là vấn
đề chiến lược của cách mạng vô sản nói chung và của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội nói riêng. Liên minh công - nông - trí thức mang tính cơ bản vừa
trước mắt vừa lâu dài và quyết định đến sự thành bại của cách mạng, sự thắng
lợi của công cuộc xây dựng xã hội mới.
Liên minh công - nông - trí thức là
cơ sở chính trị - xã hội tin cậy để đảm bảo trong thực tế sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản đối với toàn xã hội để xây dựng được nhà nước XHCN của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, thực hiện quản lý mọi mặt phát triển của đời sống xã
hội.
Khối liên minh công - nông - trí
thức trở thành nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tập hợp đồng thuận
được các lực lượng, các giai cấp, các tầng lớp thực hiện mục đích chung xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Thực chất xây dựng khối liên minh
công - nông - trí thức cũng như khối đại đoàn kết toàn dân tộc là hình thành
động lực quan trọng nhất của phát triển xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp động
viên tối đa các nguồn lực trong nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng CS.
Trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Đảng ta nêu rõ: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức
mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi
bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
*
Nội dung của liên minh công - nông - trí thức trong TKQĐ lên CNXH:
- Nội dung chính trị của liên minh
này là sự đoàn kết hợp lực của công nhân, nông dân, trí thức để xây dựng bảo vệ
vững chắc chế độ chính trị, giữ vững độc lập dân tộc và định hướng đi lên chủ
nghĩa xã hội của đất nước. Ở nước ta, liên minh công, nông, trí là để đảm bảo
quyền lợi chính trị của công, nông, trí nhằm:
+ Động viên công, nông, trí thức
tham gia xây dựng hệ thống chính trị bằng nhiều hình thức khác nhau.
+ Xây dựng và bồi dưỡng công, nông,
trí thức để họ trở thành thành viên tích cực trong hệ thống chính trị, qua đó
phát huy vai trò quản lý, lãnh đạo đất nước.
+ Nêu cao tính sáng tạo, tích cực và
gương mẫu của công, nông, trí thức trong thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng, pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết chống lại mọi biểu hiện tiêu cực.
+ Nêu cao tinh thần đoàn kết của
công, nông, trí thức, vì nước vì dân sẵn sàng tham gia chiến đấu.
- Nội dung kinh tế của liên minh này
là để xây dựng nền kinh tế mới xã hội chủ nghĩa, mà ở thời kỳ quá độ là nền
kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực chất là để đảm
bảo nghĩa vụ và quyền lợi kinh tế cho công, nông, trí thức thể hiện:
+ Xác định và đáp ứng đúng nhu cầu
kinh tế của liên minh công, nông, trí thức. Cũng nằm trong tổng thể nền kinh tế
nhiều thành phần nhưng mỗi giai đoạn thì nhu cầu có thể khác.
+ Xây dựng cơ cấu kinh tế công, nông
nghiệp hợp lý từ địa phương đến trung ương. Cơ cấu kinh tế này là sự thể hiện
liên minh chặt chẽ giữa công, nông, trí thức.
+ Nâng cao kết quả chuyển giao khoa
học, công nghệ, kỹ thuật mới vào sản xuất công nghiệp. Đó chính là liên minh
giữa trí thức và công, nông.
+ Xây dựng mối quan hệ bình đẳng,
liên kết, cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế.
+ Đảm bảo hài hòa tỷ giá trao đổi giữa
hàng công, nông nghiệp, khoa học nếu không sẽ làm giảm hoặc phá vỡ liên minh
của lực lượng này.
- Nội dung văn hóa - xã hội của liên
minh này là để xây dựng nền văn hóa mới và xã hội văn minh. Thực chất là để đáp
ứng nghĩa vụ và quyền lợi, trước hết là về đời sống văn hóa tinh thần của công,
nông, trí thức thông qua các vấn đề sau:
+ Động viên công, nông, trí thức giữ
gìn giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại, góp phần xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Xây dựng và bồi dưỡng công, nông,
trí thức tham gia sáng tạo ra những giá trị văn hóa mới, góp phần làm cho nền
văn hóa dân tộc ngày càng phong phú.
+ Phát huy vai trò của công, nông,
trí thức trong xây dựng khu dân cư văn hóa, nhất là nông thôn mới.
+ Đoàn kết công, nông, trí thức
trong việc nâng cao dân trí, bảo vệ sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống,
góp phần xây dựng con người mới - con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, nội dung liên minh công,
nông, trí thức là nhiều mặt, trong đó nội dung kinh tế là quyết định. Trong
liên minh đó thì lợi ích là vấn đề quan trọng đảm bảo cho quá trình liên minh
lâu dài và chặt chẽ.
Phương hướng tăng cường liên minh công -
nông - trí thức ở Việt Nam
-
Quán triệt và thực hiện tốt các Văn kiện của Đảng ta về xây dựng giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
Đảng
Cộng sản Việt Nam đã ban hành các Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu và bảy Ban Chấp
hành Trung ương khoá X (2008) “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, “Về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn”, và “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Quán triệt và thực hiện tốt các văn kiện
này là xây dựng được giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức
vững mạnh và qua đó công - nông - trí thức đến với nhau, đẩy mạnh liên minh,
liên kết trên tất cả các lĩnh vực.
Về nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp
công nhân: tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận
về GCCN trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế; đẩy
mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức hoá giai cấp công
nhân; quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh
thần dân tộc cho giai cấp công nhân; bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện
nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng cho công nhân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân; tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức công đoàn và các tổ
chức chính trị - xã hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân.
Về nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp
nông dân: xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, đồng
thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển các đô thị; nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn, nhất là vùng khó khăn; đổi mới
và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn;
phát triển nhanh nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ, đào
tạo nguồn nhân lực, tạo đột phá để hiện đại hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá
nông thôn; đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động các nguồn lực, phát
triển nhanh kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nông dân;
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của
các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là hội nông dân.
Về nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ
trí thức: hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động
của trí thức; thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ tôn vinh trí thức; tạo
chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức; đề cao trách nhiệm của
trí thức, nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức; nâng cao chất
lượng công tác lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức.
Trong tất cả các Văn kiện của Đảng
vừa qua về xây dựng GCCN, xây dựng nông nghiệp, nông dân, nông thôn, xây dựng
đội ngũ trí thức còn nêu rõ, phải thực hiện được liên minh công - nông - trí
thức mới giải quyết được các nhiệm vụ và giải pháp nêu trên.
- Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
và tăng cường hoạt động khuyến nông là phương hướng căn bản và quan trọng để
thực hiện liên minh công - nông - trí thức ở nước ta hiện nay
Ở nước ta, nông nghiệp và nông thôn
chiếm phần lớn và còn rất lạc hậu. Do vậy, trước hết phải công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Theo tinh thần Văn kiện Hội nghị lần thứ năm
Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn bao gồm hai vấn đề lớn: Một
là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn
gắn với công nghiệp chế biến và thị trường. Hai
là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá
trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng
sản phẩm và lao động nông nghiệp.
Để đạt được nội dung trên, phải thực
hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành tựu khoa học…
vào nông nghiệp; xây dựng nông thôn mới, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan
hệ sản xuất mới trong nông nghiệp một cách phù hợp; nâng cao đời sống vật chất
và văn hoá cho nông dân… Như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn là mở đường, là sự chủ động để công nhân và trí thức đến hợp tác,
liên kết với nông dân.
Hoạt động khuyến nông là một quá
trình chuyển giao kiến thức, đào tạo kỹ năng và trợ giúp những điều kiện vật
chất cần thiết cho nông dân để họ có khả năng tự giải quyết được công việc của
chính mình nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho gia đình và cộng
đồng. Hiện nay, hoạt động khuyến nông phải đồng thời với việc quan tâm đến công
tác thú y, bảo vệ thực vật và các dịch vụ kỹ thuật khác ở nông thôn. Chuyển
giao nhanh và ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản
xuất nông nghiệp; chú trọng các khâu giống, kỹ thuật canh tác, nuôi trồng sau
thu hoạch và công nghệ chế biến… Do đó, khuyến nông là một hình thức thiết thực
và phổ biến để liên minh công - nông - trí thức trong thực tế.
- Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở và thực hiện tốt Quy chế
và Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở là góp phần quan trọng tăng cường liên minh công -
nông - trí thức hiện nay
Các cơ
sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống. Hệ
thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận
động nhân dân nói chung, trong đó có công - nông - trí thức nói riêng, thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại
đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của dân, huy động mọi khả năng
phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư, định hướng
và động viên liên kết công - nông - trí thức trên địa bàn…
Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khoá IX đã chỉ rõ những nội dung chủ yếu đổi mới để nâng
cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở, củng cố niềm tin trong nhân dân,
tăng cường liên minh công - nông - trí thức trên các lĩnh vực góp phần vào phát
triển chung của địa phương và đất nước. Trong đó, chú trọng đến xác định rõ
chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống, đồng thời xây dựng mối
quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, chi
bộ cơ sở; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động hướng vào phục vụ dân, sát
với dân, được dân tin cậy. Thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức
của hệ thống chính trị ở cơ sở theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy
quyền làm chủ của dân trên cơ sở thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy
quyền dân chủ đại diện, quy định cụ thể việc thực hiện quyền của dân giám sát
tổ chức và cán bộ ở cơ sở và thay thế người không đủ tín nhiệm. Phát huy dân
chủ phải đi liền với củng cố và nâng cao kỷ luật, kỷ cương theo pháp luật. Xây
dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tuỵ với
dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân; trẻ hoá đội
ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính
sách đối với cán bộ cơ sở.
Quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân
ở cơ sở, từ năm 1998, được Đảng ta khái quát hoá trong Chỉ thị số 30 của Ban Bí
thư về Quy chế dân chủ ở cơ sở mà tinh thần cơ bản là: dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra. Ngay sau đó, Chính phủ đã cụ thể hoá trong Nghị định số 29
về ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (loại hình cơ sở có dân chủ yếu là:
nông dân); Nghị định số 71 về ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt
động của cơ quan (loại hình cơ sở có dân chủ yếu là: trí thức, công chức); Nghị
định số 07 về ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước (loại
hình cơ sở có dân chủ yếu là: công nhân). Quy chế dân chủ ở cơ sở nay đã nâng
lên thành Pháp lệnh, thể hiện sự tôn trọng nhân dân, trong đó có công - nông -
trí thức. Quy chế và Pháp lệnh được phát huy là nâng cao quyền làm chủ, sức
sáng tạo của nhân dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân
dân nói chung và của công nhân, nông dân, trí thức nói riêng vào phát triển
kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, tăng cường đoàn kết, cải thiện dân sinh,
nâng cao dân trí, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở cơ sở vững
mạnh; ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham những, góp
phần vào sự nghiệp dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh…
-
Phát hiện, hoàn thiện và nhân rộng những mô hình liên minh công - nông - trí
thức trong thực tiễn
Trong
thực tiễn phong phú của công cuộc đổi mới đất nước luôn nảy sinh những hình
thức mới về liên minh công - nông - trí thức. Những hình thức này lúc đầu, chắc
chắn còn nhiều khiếm khuyết, chưa rõ ràng. Thế nhưng, nếu có ý thức nghiên cứu
nhận thấy chúng có triển vọng thì cần sớm quan tâm tác động để có được những mô
hình, ngọn cờ thực sự trong liên minh công - nông - trí thức. Hiện nay, đang có
những mô hình được xã hội quan tâm và nhân rộng ở nhiều nơi, đó là hình thức
“liên kết bốn nhà” - nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học và nhà nước. Các
mô hình liên minh công - nông - trí thức có được là rất quý giá bởi chúng kích
thích, làm cơ sở để áp dụng tiếp vào thực tế. Quá trình ấy, ở từng lúc, từng
nơi rất cần áp dụng một cách sáng tạo, đồng thời tiếp tục hoàn thiện, nhân rộng
để phát huy giá trị của các mô hình.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội và tổ
chức nghề nghiệp của công nhân, nông dân và trí thức là góp phần trực tiếp tăng
cường liên minh công - nông - trí thức hiện nay
Ở đây
muốn nói đến các tổ chức công đoàn, nghiệp đoàn… của công nhân; các tổ chức Hội
Nông dân, Hội Khuyến nông… của nông dân; các tổ chức Liên hiệp các Hội Khoa học
- Kỹ thuật, Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật… của trí thức. Các đoàn thể
này có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi
các tầng lớp công - nông - trí thức; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của
công - nông - trí thức; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
các chương trình kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống,
góp phần xây dựng sự đồng thuận trong xã hội nói chung và trong công - nông -
trí thức nói riêng…
Nhà nước ban hành cơ chế để các tổ
chức thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Các cấp uỷ đảng và cấp
chính quyền có chế độ tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với công nhân, nông dân,
trí thức; thường xuyên lắng nghe ý kiến của các tổ chức phản ánh với Đảng, Nhà
nước những vấn đề mà công nhân, nông dân, trí thức quan tâm, tham gia xây dựng
chủ trương, chính sách, pháp luật. Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở mọi cấp để các tổ chức và các tầng lớp công
- nông - trí thức tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị.
Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ
chức nghề nghiệp của công nhân, nông dân, trí thức, khắc phục tình trạng hành
chính hoá, phô trương, hình thức, làm tốt công tác dân vận theo phong cách
trọng dân, gần dân và có trách nhiệm với dân.
Câu 6: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH? Vận dụng vào Việt Nam trong thời kỳ đổi mới?
Tư
tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung
cốt lõi xuyên suốt toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Người. Đây chính là con
đường tất yếu và duy nhất đúng đắn mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn cho dân tộc ta.
Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần độc lập dân tộc là sản
phẩm tinh thần cao quý nhất của dân tộc Việt Nam, là tư tưởng, là tình cảm
thiêng liêng giữ vị trí chuẩn mực cao nhất của đạo lý và đứng đầu bậc thang giá
trị dân tộc. Tinh thần đó đã phát huy sức mạnh vô biên của nó trong các cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm và trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc
ta qua các thời đại. Từ những thực tiễn sinh động của đất nước qua 4000 năm lịch
sử và của các cuộc cách mạng trên thế giới, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng, trước tiên là độc lập
dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội.
Trong lịch sử các cuộc khởi nghĩa
chống giặc ngoại xâm do giai cấp phong kiến lãnh đạo nhân dân ta tiến hành, sau
khi giành thắng lợi đều tiếp tục thực hiện chế độ phong kiến và quay trở lại
đàn áp nhân dân, cho nên, mặc dù dân tộc đã được giải phóng nhưng con người vẫn
chưa được giải phóng. Sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, triều đình nhà
Nguyễn chấp nhận sự bảo hộ của thực dân Pháp. Với Hiệp ước Patơnốt (6-6-1984),
nước Việt Nam từ một quốc gia phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa nửa
phong kiến. Phát huy truyền thống yêu nước nồng nàn, nhân dân từ Bắc chí Nam
liên tiếp nổi dậy chống cả “triều lẫn tây”. Tiêu biểu cho chí khí quật cường
dân tộc, ở miền Bắc có khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám, miền
Trung có Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng, miền Nam có Trương Công Định, Nguyễn
Trung Trực.
Những thập niên đầu thế kỷ XX có
phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp theo khuynh hướng tiểu tư sản, tư sản
tiếp tục phát triển: đó là Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Việt Nam Quang phục
hội, khởi nghĩa Yên Bái... Trước một kẻ thù mới là bọn tư bản Pháp, các phong
trào đấu tranh của nhân dân ta tuy có gây cho chúng những tổn thất, khó khăn
nhất định, nhưng cuối cùng đều bị thất bại. Nhiều cuộc khởi nghĩa bị dìm trong
máu. Tình hình đen tối như không có đường ra. Từ thất bại của phong trào giải
phóng dân tộc của phong trào Cần vương và các cuộc cách mạng Pháp, Mỹ, Hồ Chí
Minh phân tích: Phong trào giải phóng dân tộc của các cụ Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh dựa trên hệ tư tưởng phong kiến hoặc tư sản, sự nghiệp giải phóng
dân tộc ấy bị thất bại bởi vì không gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Con đường
giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là duy nhất đúng vì độc lập dân tộc gắn liền
chủ nghĩa xã hội, gắn với tiến bộ xã hội.
Hai cuộc cách mạng Pháp và Mỹ, hai
cuộc cách mạng đó là cách mạng tư sản không đến nơi đến chốn. Tiếp thu luận
điểm của tư tưởng Mác-Ăngghen và thực tiễn cuộc cách mạng tháng Mười Nga, Hồ
Chí Minh cho đây là cách mạng vô sản - cách mạng triệt để.
Từ đó, tư tưởng Hồ Chí Minh, trước
hết là tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ra đời đáp ứng
được đòi hỏi của lịch sử dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng
định: tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là
nội dung cốt lõi xuyên suốt toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Người. Hồ Chí
Minh cho chúng ta biết tất cả mọi hoạt động lý luận và thực tiễn của Người đều
tập trung vào một đề tài, một mục tiêu: “chống thực dân đế quốc, chống phong
kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” và đã giành
được thắng lợi.
Đó là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Điều
đó thể hiện đặc biệt rõ khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Trong khi giải
quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần
phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý
luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước
thuộc địa và phụ thuộc”.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
phản ảnh quan điểm cách mạng không ngừng, một quá trình vận động liên tục của
lịch sử cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc là mục tiêu, trước hết là cơ sở,
tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng Việt Nam
phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn ấy không có bức tường ngăn cách, mà gắn bó chặt
chẽ với nhau.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
có hai nhiệm vụ chiến lược chống thực dân xâm lược và chống địa chủ phong kiến.
Nhiệm vụ dân tộc và dân chủ quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó, nhiệm vụ giải
phóng dân tộc đặt lên trên hết, trước hết, nhiệm vụ dân chủ cần thực hiện từng
bước và phải phục tùng sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tư tưởng trên đây được Hồ
Chí Minh thể hiện rõ nét trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 và Người
nhấn mạnh tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tám (khoá I) 5-1941.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập
dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc dân chủ. Không phải bất kỳ độc lập dân tộc
nào cũng tạo cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, để
tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân phải được thực hiện một cách triệt để “đến nơi”. Đó là một nền
độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn, không lệ thuộc vào bất cứ lực lượng nào cả
về đối nội, đối ngoại. Hồ Chí Minh nhiều lần phê phán sự lệ thuộc về mọi mặt
của những chính quyền do thực dân mới và cũ lập nên ở Việt Nam. Người gọi đó là
độc lập giả hiệu kiểu Mỹ.
Để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến
lên chủ nghĩa xã hội, đối với Việt Nam, một đòi hỏi có ý nghĩa sống còn là độc
lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất
nước. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, Bắc - Trung - Nam là một
khối thống nhất không thể phân chia, đồng bào Kinh, Mường, Thái, Êđê, Bana...
đều là con Rồng, cháu Tiên. Đó là quan điểm nhất quán, mang tính nguyên tắc của
Hồ Chí Minh. Không duy trì và phát triển được khối thống nhất đó thì không thể
có độc lập dân tộc, càng không thể nói đến việc tạo cơ sở, tiền đề để tiến lên
chủ nghĩa xã hội.
Để tiến lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi
độc lập dân tộc phải đi đôi với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Theo Hồ Chí
Minh: “Nếu nước được độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì
độc lập chẳng có ý nghĩa gì”.
- Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo
vệ và phát triển thành quả của độc lập dân tộc.
- Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa
xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài. Theo
logic của sự phát triển, hai mục tiêu ấy đều quan trọng và gắn bó chặt chẽ với
nhau. Không thể đi đến mục tiêu cuối cùng nếu không thực hiện được mục tiêu
trước mắt. Chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng mới bảo vệ và phát triển được
những thành quả của mục tiêu trước mắt. Vì vậy, nếu độc lập dân tộc tạo cơ sở,
tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội thì chủ nghĩa xã hội là con đường tốt nhất
để giữ vững và phát triển lên một tầm cao mới thành quả của độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội
là làm cho dân giàu, nước mạnh, ai cũng có công ăn việc làm, được ăn no, mặc
ấm, được học hành. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn
nhau. Về mặt phân phối sản phẩm lao động thì chủ nghĩa xã hội là ai làm nhiều
hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Chính sách xã hội có nhiều ưu việt, nhất là những
người già yếu, tàn tật và trẻ em thì xã hội có trách nhiệm chăm sóc nuôi dưỡng.
Trong chủ nghĩa xã hội, văn hoá, khoa học kỹ thuật, chính trị và kinh tế, đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân được quan tâm và ngày một nâng cao. Về
mặt đối ngoại, chủ nghĩa xã hội là hòa bình, hữu nghị, làm bạn với tất cả các
nước. Chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng đó không chỉ bảo vệ những thành quả
của độc lập dân tộc mà cơ bản tạo nên sự phát triển mới về chất. Hồ Chí Minh khẳng
định chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới bảo đảm cho một nền độc
lập dân tộc chân chính, mới giải phóng các dân tộc một cách thực sự, hoàn toàn.
Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng, cả
cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa là việc khó, là cuộc
đấu tranh gay go, ác liệt, lâu dài. Giành độc lập dân tộc đã khó, xây dựng chủ
nghĩa xã hội còn khó khăn hơn. Hồ Chí Minh so sánh: thắng đế quốc phong kiến là
tương đối dễ, thắng bần cùng lạc hậu khó hơn nhiều. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đánh
đổ giai cấp địch đã khó, đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội còn gian khổ, khó
khăn hơn nhiều”. Từ những khó khăn gian khổ ấy, Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng,
Nhà nước và mỗi người dân phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội xuất hiện từ năm 1920, khi Người bắt gặp chủ
nghĩa Mác-Lênin, và nó được thể hiện rõ nét từ năm 1930. Thực tiễn cách mạng
Việt Nam đã chứng minh tư tưởng của Người về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội có thể phân thành 3 thời kỳ chủ yếu:
- Thời kỳ 1930-1945:
Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh thời kỳ này thể hiện rõ trong những văn
kiện do Hồ Chí Minh soạn thảo được Hội nghị hợp nhất thông qua. Chánh cương vắn
tắt của Đảng chỉ rõ chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Hồ Chí Minh khẳng định sự nghiệp giải phóng
dân tộc ở Việt Nam được thực hiện bằng con đường cách mạng vô sản: “Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”.
- Thời kỳ 1945-1954:
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội ở thời kỳ này được thể hiện ở những chủ trương, đường lối chiến
lược do Hồ Chí Minh khởi xướng “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, “kháng chiến
đi đôi với kiến quốc”, “kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá hoá kháng chiến”.
Kháng chiến tức là bảo vệ nền độc
lập dân tộc, chống sự xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp theo phương châm
trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi.
Kiến quốc theo Hồ Chí Minh là xây
dựng, củng cố Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, xây dựng đời
sống mới, xây dựng những cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội.
- Thời kỳ 1945-1969:
Ở thời kỳ này, độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện qua chủ trương:
một Đảng Cộng sản lãnh đạo thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ở hai
miền: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Đây là một sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh.
Tháng 9-1969 Hồ Chí Minh qua đời.
Theo chỉ dẫn của Người, nhân dân ta đã đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào. Với
chiến dịch lịch sử mang tên Hồ Chí Minh, mục tiêu của thời kỳ này được hoàn
thành vào ngày 30-4-1975.
Trong bối cảnh hiện nay, tình hình
quốc tế vừa hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn của thế giới. Tuy
nhiên, từ sau sự kiện 11/9/2001 ở Mỹ, các thế lực hiếu chiến mưu đồ thiết lập
“trật tự kinh tế thế giới mới” lợi dụng chiêu bài chống khủng bố “tuyên bố sẵn
sàng đơn phương đánh đòn phủ đầu” khi cần, bất chấp Liên hiệp quốc và dư luận
quốc tế, đã đơn phương phát động chiến tranh Irắc, đã tác động rất lớn đến tình
hình kinh tế, xã hội ở nước ta. Kinh tế thế giới tiếp tục tình trạng trì trệ,
châu Á và các nước Đông Nam Á vẫn tiếp tục phát triển về kinh tế nhưng cũng
tiềm ẩn các nhân tố có thể gây bất ổn định.
Tình hình kinh tế, xã hội của đất
nước có những chuyển biến tích cực, thế và lực của nước ta được tăng cường đã
củng cố niềm tin của nhân dân vào công cuộc đổi mới, làm tăng thêm sự nhất trí
trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội. Tuy nhiên, năng suất, chất lượng,
hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, nhiều vấn đề xã hội bức xúc,
nạn tham nhũng, lãng phí và tình trạng suy thoái đạo đức lối sống còn nghiêm
trọng, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hoà bình”,
gây sức ép với ta dưới chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo,
tiếp tay cho các thế lực phản động và bọn cơ hội chính trị trong nước hoạt động
chống phá ta ngày càng quyết liệt, thâm độc hơn.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
chính là sức mạnh cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trước kia, chúng ta thắng thực
dân Pháp, thắng đế quốc Mỹ vì chúng đã phát huy được nguồn sức mạnh to lớn đó.
Trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, đi theo định hướng XHCN, chúng ta
sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại. Sức mạnh đó là vô
địch trong hòa bình cũng như nó đã là vô địch trong chiến tranh giải phóng dân
tộc. Tổng kết 10 năm đổi mới của đất nước, Đại hội lần thứ VIII của Đảng ta đã
rút ra sáu bài học kinh nghiệm quan trọng để chỉ đạo cách mạng Việt Nam trong
giai đoạn mới. Bài học đầu tiên mà Đảng ta nêu lên là: “Giữ vững mục tiêu độc
lập dân tộc và CNXH trong quá trình đổi mới”, “đổi mới không phải là thay đổi
mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy
bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp”.
Để cho nền độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam mãi mãi là chân lý sinh động, phải
thực hiện tốt một số nội dung cơ bản là:
- Phải củng cố vững chắc hệ thống
chính trị, trong đó Đảng Cộng Sản là nhân tố quan trọng hàng đầu. Đảng Cộng Sản
Việt Nam là người cầm lái con thuyền cách mạng Việt Nam. Người cầm lái có vững
thì cách mạng mới đi đúng hướng. Vì vậy, phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, để Đảng thực sự là đội tiên phong, có bản lĩnh chính trị
vững vàng. Muốn vậy, cần phải dũng cảm đấu tranh vạch mặt, kiên quyết loại trừ
các phần tử cơ hội ra khỏi Đảng, ra khỏi vị trí công tác quan trọng, ngăn ngừa
không để cho các phần tử cơ hội chui vào hàng ngũ của Đảng. Cần phải tiếp tục
hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Có cơ chế
bầu cử công khai, dân chủ để thực sự lựa chọn những người ưu tú nhất, có đủ đức
tài, có tâm huyết, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, không còn hiện tượng mua
quan, bán tước, chạy chức, chạy quyền, đồng thời phải nâng cao năng lực tổ chức
thực hiện đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng cho tốt, theo đúng tinh
thần “chỉ tiêu 1, biện pháp 10, quyết tâm hai, ba mươi”, nói phải đi đôi với
làm, có làm được mới nói hoặc theo phương châm “thà ít mà tốt”.
Bên cạnh sự lãnh đạo của Đảng, cần
có một Nhà nước pháp quyền XHCN thật sự là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước
phải đủ mạnh với hệ thống luật pháp chặt chẽ, các cơ quan chức năng gọn nhẹ và
có hiệu lực cao, với những cán bộ công chức có đủ đức tài để quản lý xã hội,
phục vụ nhân dân.
Khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ
sở liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng được củng cố và
mở rộng. Tăng cường và củng cố các tổ chức xã hội, các đoàn thể quần chúng cũng
là một biện pháp quan trọng để giữ vững định hướng XHCN. Bởi vì, quần chúng nhân
dân chỉ có thể phát huy được sức mạnh và thực hiện quyền làm chủ của mình thông
qua các đoàn thể thích hợp. Các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng phải được
tổ chức rộng rãi trong tất cả các đơn vị kinh tế, các cơ sở dịch vụ của nhà
nước, tư nhân và liên doanh với tư bản trong nước và nước ngoài để thực hiện
tốt các chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, bảo đảm công bằng xã
hội và lợi ích chính đáng của người lao động.
Trong giai đoạn hiện nay, nền độc
lập dân tộc của chúng ta đang đứng trước nhiều thử thách trên các lĩnh vực. Vì
vậy, để giữ vững độc lập dân tộc thì phải ra sức phát triển chủ nghĩa yêu nước
và tinh thần dân tộc, kết hợp với việc tăng cường giáo dục lý tưởng XHCN tạo ra
nguồn nội lực mới để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời không ngừng nâng cao
tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu “Diễn biến hoà bình” và bạo
loạn lật đổ của các thế lực thù địch trong và ngoài nước. Chỉ có giữ vững độc
lập dân tộc mới có điều kiện để xây dựng, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống
nhân dân, mở mang dân trí, xây dựng nền quốc phòng vững mạnh. Bên cạnh việc giữ
gìn sự bình yên của đất nước, sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, vùng đất, vùng
trời, vùng biển và hải đảo quốc gia, chúng ta cần phải đảm bảo sự độc lập về
chính trị, kiên định đường lối đổi mới đất nước do Đảng CS Việt Nam khởi xướng
và lãnh đạo; không dao động, giáo điều, rập khuôn cũng như không vì bất kỳ lý
do nào, sức ép nào mà thay đổi mục phương hướng mục tiêu đã chọn. Chỉ có độc
lập về chính trị mới bảo đảm giữ cho dân tộc được độc lập một cách thật sự và
đúng nghĩa của nó. Cùng với độc lập chính trị, chúng ta cần phải xây dựng một
nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính
sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu
quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn tổng hợp để
phát triển đất nước. Tuy nhiên, cần phải đảm bảo hội nhập nhưng không hoà tan,
hợp tác nhưng không lệ thuộc, bởi vì sự lệ thuộc về kinh tế sẽ dẫn đến sự lệ
thuộc về chính trị và như vậy, độc lập dân tộc khó mà giữ vững. Nhưng nếu tách
khỏi xu hướng hợp tác, hội nhập thì sẽ không tránh khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế, từ đó cũng khó mà giữ vững được độc lập dân tộc. Bởi lẽ có một nền
kinh tế giàu mạnh sẽ là điều kiện rất quan trọng và rất cần thiết để đảm bảo
giữ vững ổn định chính trị, giữ vững định hướng XHCN và giữ vững độc lập dân
tộc. Phải tăng cường sự ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hoà bình,
dân chủ và tiến bộ trên thế giới được giữ vững và phát triển.
Một nội dung quan trọng nữa đó là
phải xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Mục
tiêu độc lập dân tộc ngày càng cho thấy sự cần thiết và bức bách phải giữ gìn
bản sắc văn hoá dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hoá phải được thấm
đượm trong mọi lĩnh vực. Tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loai không đánh mất giá
trị truyền thống và bản sắc dân tộc. Giao lưu, hoà nhập nhưng không để hoà tan.
Tóm
lại, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là con đường đúng đắn, là sự lựa chọn
sáng suốt có ý nghĩa thời đại, thể hiện trí tuệ anh ninh, linh khiếu chính trị
tuyệt vời, tình cảm giai cấp và dân tộc sâu sắc của Hồ Chí Minh. Mục tiêu và
con đường đó được Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức và vận dụng trong từng giai
đoạn lịch sử cụ thể với những nhiệm vụ và phương pháp phù hợp. Thực tiễn cách mạng
nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 85 năm qua là quá trình thực hiện và hoàn
thiện dần mục tiêu và con đường mà Hồ Chí Minh đã vạch ra. Những thắng lợi của
cách mạng Việt Nam đã chứng minh tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền CNXH của Người
là đúng đắn.
Câu 7: Nội dung cơ bản và ý nghĩa quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất dân chủ, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước VN. Vận dụng TT Hồ Chí Minh vào xây dựng và hoàn thiện NN pháp quyền XHCN VN. Liên hệ với địa phương, đơn vị.
Tư tưởng Hồ
Chí Minh là sự thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự thống nhất đó cũng được thể hiện rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước.
* Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại
khi giai cấp và đấu tranh giai cấp xuất hiện. Khi nói tính chất dân chủ mới của
nhà nước ta là nhà nước “của dân, do dân, vì dân” không có nghĩa là nhà nước
phi giai cấp hay siêu cấp. Nhà nước của ta là nhà nước dân chủ nhân dân, dựa
trên nền tảng liên minh công - nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Như vậy,
bản chất giai cấp của nhà nước ta là bản chất giai cấp công nhân.
* Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta được biểu hiện
trước hết ở chỗ:
- Nhà nước do ĐCS lãnh đạo. ĐCS Việt Nam lãnh đạo Nhà nước
giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân. Cách mạng Việt Nam từ sau
1930 đến nay là do ĐCS Việt Nam lãnh đạo, dù còn hoạt động bí mật hay đã ra
công khai, dù chưa có chính quyền hay sau khi đã giành được chính quyền, lúc
nào Đảng ta cũng giữ vai trò lãnh đạo của mình đối với cách mạng Việt Nam,
trong đó, có nhà nước. Trong quan điểm cơ bản xây dựng nhà nước do nhân dân lao
động làm chủ, một nhà nước thể hiện tính chất nhân dân rộng rãi, Hồ Chí Minh
vẫn nhấn mạnh nòng cốt của nhân dân là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai nông dân và trí thức do giai công
nhân mà đội tiên phong của nó là ĐCS Việt Nam lãnh đạo.
- Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp. Phương
thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước ta qua những thời kì khác nhau là khác
nhau. Song tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn có những vấn đề cơ bản về phương thức lãnh
đạo của Đảng chung cho các thời kì:
+ Đảng lãnh đạo
bằng những chủ trương, đường lối lớn, thông qua tổ chức của mình trong Quốc
hội, Chính phủ và các ngành, các cấp của Nhà nước. Đảng phấn đấu để thể chế hoá
quan điểm, đường lối, nghị quyết của mình, biến nó thành pháp luật, chính sách,
kế hoạch của Nhà nước.
+ Đảng lãnh đạo
Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên của mình trong bộ máy
cơ quan nhà nước.
+ Đảng lãnh đạo
Nhà nước bằng công tác kiểm tra.
- Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước được thể hiện ở
tính định hướng đưa đất nước quá độ đi lên CHXN bằng cách phát triển và cải tạo
nền kinh tế quốc dân theo CNXH, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế
XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kĩ thuật tiên tiến.
- Bản chất giai công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở nguyên
tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh đến việc phát huy cao độ dân chủ, đồng thời phát huy cao độ tập
trung. Nhà nước phải tập trung thống nhất quyền lực để tất cả quyền lực vào tay
nhân dân.
Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, dân
tộc: Hồ Chí Minh đã
giải quyết hài hòa thống nhất giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân, tính
dân tộc biểu hiện rõ trong những quan điểm sau:
- Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuốc đấu tranh lâu dài,
gian khổ của rất nhiều thế hệ người Việt Nam từ quá trình dựng nước và giữ nước
hàng nghìn năm của dân tộc.
- Tính thống nhất giữa bản chất giai công nhân và tính nhân
dân, tính dân tộc còn thể hiện ở chỗ Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân,
lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng. Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ bản của
giai công nhân, của nhân dân lao động và của toàn dân tộc là một. Nhà nước ta
không những thể hiện ý chí của giai công nhân mà còn thể hiện ý chí của nhân
dân và của toàn dân tộc.
- Nhà nước mới ra đời của ta đã phải đảm nhiện nhiệm vụ lịch
sử của cả dân tộc giao phó là lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến toàn
dân, toàn diện để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ nền độc lập dân tộc, tự do
của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của cách mạng thế
giới.
Trong quá trình đi tìm đường cứu
nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải tìm tòi, giải quyết hàng loạt vấn đề về
đường lối chiến lược của cách mạng, về giành chính quyền và giữ chính quyền.
Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách
mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề cơ bản của một chính quyền là ở chỗ nó
thuộc về ai, phục vụ cho quyền lợi của ai.
Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm
Đường cách mệnh, Hồ Chủ tịch đã chỉ rõ: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì
nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân
chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều
lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Sau khi nước ta giành được độc lập,
Người khẳng định: Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân...
Chính quyền từ xã đến chính phủ
trung ương do dân cử ra...
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân. Đó chính là nhà nước của dân, do dân và vì dân, là điểm khác
nhau về bản chất giữa nhà nước của nhân dân với các nhà nước của giai cấp bóc
lột đã từng tột tại trong lịch sử.
Nhà nước của dân, như điều thứ 1-
Hiến pháp năm 1946 do Người làm trưởng ban soạn thảo đã khẳng định rõ: “Nước
Việt nam là một nước dân chủ cộng hòa, tất cả quyền bính trong nước là của toàn
thể nhân dân Việt nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp,
tôn giáo”.
Trong nhà nước của dân thì dân là
chủ, Nhà nước phải hình thành được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm
chủ của người dân. Cũng trên ý nghĩa đó, các vị đại diện của dân, do dân cử ra,
chỉ là thừa ủy quyền của dân, chỉ là “công bộc” của dân theo ý nghĩa đúng đắn
của từ này.
Nhà nước do dân, đó là nhà nước do
dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình, nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp
đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt động. Người yêu cầu: Tất cả các cơ
quan nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý
kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.
Nhà nước vì dân, đó là nhà nước phục
vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi, thật sự
trong sạch, cần kiệm liêm chính.
Theo tư tưởng Hồ chí Minh, một nhà
nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, trước hết phải là một nhà nước hợp hiến. Ngay
sau khi giành được chính quyền trong cả nước, Chủ tịch Hồ chí Minh đã thay mặt
chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào
và với thế giới về sự khai sinh của nhà nước Việt Nam mới. Nhờ đó, Chính phủ
lâm thời do cuộc cách mạng của nhân dân lập nên có được địa vị hợp pháp và Việt
nam có vinh dự là một trong rất ít quốc gia sau cách mạng, có được một bản
Tuyên ngôn nổi tiếng về quyền của các dân tộc, có giá trị đóng góp vào sự phát
triển nền pháp lý tiến bộ của loài người.
Tiếp đó, tại phiên họp đầu tiên của
Chính phủ nước Việt nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm
vụ: “Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng
sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu” để sớm có một
nhà nước hợp hiến do nhân dân bầu ra.
Mặc dù nhiều khó khăn dồn dập do thù
trong, giặc ngoài gây ra, cuộc tổng tuyển cử trong cả nước đã được tiến hành
chỉ bốn tháng sau ngày độc lập trong hoàn cảnh Nam bộ đã bước vào cuộc kháng
chiến chống lại gây hấn của thực dân Pháp, Bắc bộ phải đối phó với những yêu
sách và hoạt động gây rối của quân đội Tưởng và bè lũ tay sai.
Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên trong
lịch sử dân tộc đã thành công tốt đẹp với hơn 90% cử tri đi bỏ phiếu, ba trăm
ba mươi ba đại biểu trúng cử. Quốc hội họp phiên đầu tiên đã nhất trí bầu Chủ
tịch Hồ Chí Minh làm chủ tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Đây là chính phủ
hợp hiến đầu tiên do đại biểu của nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu
lực trong việc giải quyết mọi vấn đề nội trị và ngoại giao của Nhà nước Việt
nam mới.
Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ chí
Minh, một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh là nhà nước quản lý đất nước
bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Trong một
nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau
mới đảm bảo được chính quyền trở nên mạnh mẽ. Trong Việt nam yêu cầu ca, Người
đã khẳng định vai trò của pháp luật bằng câu: Trăm điều phải có thần linh pháp
quyền.
Một mặt, chăm lo hoàn thiện hiến
pháp và hệ thống pháp luật của nước ta, mặt khác, Người hết sức chăm lo đưa
pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế đảm bảo cho pháp luật được thi hành, cơ
chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó trong các cơ quan nhà nước và trong
nhân dân.
Để pháp luật đi vào đời sống thì
phải coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn
hóa chính trị và tính tích cực công dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào
công việc nhà nước, khắc phục mọi thứ dân chủ hình thức. Người thường nhắc nhở
cán bộ phải lo “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ của mình, dám
nói, dám làm”. Đồng thời Người cũng thường xuyên nhắc nhở cán bộ các cấp, các
ngành phải gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật, mà trước hết là cán bộ
thuộc ngành hành pháp và tư pháp phải nêu cao gương “phụng công, thủ pháp, chí
công, vô tư” cho nhân dân noi theo.
Người thường không hài lòng trước
việc pháp luật của ta không được thực hiện nghiêm minh, xét xử thiếu công bằng,
thưởng có khi quá rộng mà phạt thì không nghiêm, lẫn lộn giữa công và tội. Có
công thì được hưởng, có lỗi thì phải phạt, không vì công mà quên lỗi, vì lỗi mà
quên công.
Để tiến tới một nhà nước pháp quyền
có hiệu lực mạnh mẽ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ phải nhanh chóng đào tạo,
bồi dưỡng nhằm hình thành nột đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước có trình độ
văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có
đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, một tiêu chuẩn cơ bản cho người
cầm cân nẩy mực cho công lý.
Cán bộ nhà nước phải biết quản lý
nhà nước. Người quyết định đẩy mạnh việc đào tạo như mở trường huấn luyện cán
bộ Việt nam, thành lập khoa pháp lý tại Trường đại học Việt nam. Một mặt, mạnh
dạn sử dụng những viên chức, quan lại đã được đào tạo về nghiệp vụ và kỷ thuật
hành chính dưới chế độ cũ; mặt khác, Người đăng báo “tìm người tài đức”, kêu
gọi ai có tài hãy ra giúp nước nhà.
Trong việc dùng cán bộ, Người nhắc
nhở phải tẩy sạch óc bè phái, phải đảm bảo công bằng, dân chủ trong vấn đề
tuyển dụng cán bộ nhà nước, Người ký sắc lệnh ban hành Quy chế công chức.
Khác với những cán bộ của các cơ
quan dân cử, công chức theo chế độ chức nghiệp, vì vậy, phải trải qua một kỳ
thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch bậc hành chính.
Nội dung thi tuyển yêu cầu khá toàn
diện, bao gồm 6 môn thi: Chính trị - Kinh tế - Pháp luật - Địa lý - Lịch sử -
Ngoại ngữ (tự nguyện).
Người dự thi tuyển phải qua một lớp
huấn luyện để bổ túc học vấn. Tùy theo kết quả thi cử và năng lực, trình độ,
phẩm chất của mỗi người mà sắp xếp vào ngạch bậc và bổ dụng theo thứ tự trên
dưới.
Đối với cán bộ, đặc biệt là cán bộ
quản lý nhà nước, điều quan tâm thường xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là
phẩm chất đạo đức và tinh thần phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc.
Đối với Hồ Chủ tịch, cán bộ quản lý
nhà nước khó tránh khỏi xu hướng quan liêu hóa nên luôn luôn nhắc nhở họ phải
thân dân, gần dân, trọng dân, không được lên mặt “quan cách mạng” với dân, phải
lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.
Kể từ sau Cách mạng tháng Tám thành
công, chính quyền về tay nhân dân đến nay đã qua mấy chục năm xây dựng và đổi
mới phương thức tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, tuy nội dung và nhiệm
vụ của nhà nước có khác nhau, song về bản chất vẫn là nhà nước của dân, do dân
và vì dân, được xây dựng trên những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ chí Minh.
Ngày nay với công cuộc đổi mới, từ
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, trong điều kiện mở cửa, hội nhập kinh
tế quốc tế, làm ăn với nước ngoài... đã có sự thay đổi rất nhiều, từ nội dung
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động, cho đến yêu cầu về phẩm chất
năng lực của con người vận hành bộ máy nhà nước
Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa
VII (1994), Đảng ta đã xác định nhiệm vụ và phương hướng xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
Vận dụng tư tưởng Hồ chí Minh, liên
hệ với tình hình hiện nay, có thể thấy nổi lên mấy vấn đề cấp bách cần tập
trung giải quyết để không ngừng hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân:
- Phát huy dân chủ đi đôi với tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo thật sự tôn trọng quyền làm chủ của
nhân dân.
Chính khát vọng dân chủ đã tạo nên
sức mạnh kiên cường đấu tranh cho độc lập, tự do. Trong điều kiện khó khăn phức
tạp của tình hình đất nước hiện nay thì mở rộng dân chủ là một nhiệm vụ quan
trọng và cấp thiết để khai thác sức mạnh vô tận của nhân dân ta trong sự nghiệp
đổi mới, mở cửa. Thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết được
mọi khó khăn. Qua thực tế hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta đã chỉ ra rằng nơi nào
thực hiện được dân chủ, phát huy được trí tuệ của đông đảo cán bộ và nhân dân
thì nhất định thành công. Ngược lại, nơi nào để mất dân chủ, gây ra sự bất mãn
trong quần chúng thì nơi đó không tránh khỏi khó khăn và dẫn tới những hậu quả
đáng tiếc.
Phát huy dân chủ phải kết hợp với
tăng cường pháp chế, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời đẩy
mạnh cuộc đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật, đảm bảo cho mỗi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được xét xử nghiêm
minh, đúng người, đúng tội, không phân biệt người đó là ai, để đem lại niềm tin
cho nhân dân vào tính nghiêm minh của pháp luật của Nhà nước ta.
- Cải cách và kiện toàn bộ máy hành
chính nhà nước, xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh.
Hiện nay nền hành chính của ta còn
nhiều yếu kém: quan liêu, xa dân, xa cơ sở, phân tán, thiếu trật tự kỷ cương,
nạn tham nhũng và lãng phí của công, bộ máy cồng kềnh, nặng nề, kém hiệu lực,
đội ngũ cán bộ, công chức còn yếu về kiến thức, năng lực, một bộ phận không nhỏ
kém phẩm chất, thậm chí hư hỏng.
Cải cách hành chính để có một nền
hành chính dân chủ, trong sạch, phục vụ đắc lực nhân dân, giữ vững trật tự kỷ
cương xã hội theo pháp luật. Nó phải phục vụ tận tụy, công tâm, đáp ứng yêu cầu
hàng ngày về quyền lợi hợp pháp của nhân dân.
Cần phải làm cho đội ngũ cán bộ,
viên chức quán triệt nhận thức: Nhà nước là một tổ chức công quyền thể hiện
quyền lực của nhân dân, nhân viên nhà nước là công bộc của nhân dân.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước; gắn liền xây dựng, chỉnh đốn Đảng với cải cách bộ máy hành
chính.
Những năm gần đây, Đảng ta đã có
nhiều nghị quyết về củng cố và tăng cường bộ máy nhà nước, đấu tranh chống các
tệ nạn làm suy giảm uy tín và hiệu lực của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, yêu cầu
của cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, trù dập, ức hiếp
nhân dân... đang đòi hỏi Đảng ta một sự lãnh đạo tập trung hơn nữa, quyết tâm
cao hơn, có kế hoạch và biện pháp triệt để hơn nữa.
Cuộc đấu tranh để khắc phục những
khuyết tật của bộ máy nhà nước không thể tách rời cuộc vận động xây dựng và
chỉnh đốn Đảng. Để chỉnh đốn lại bộ máy nhà nước, Đảng phải tự chỉnh đốn, phải
nêu gương về mặt trong sạch, vững mạnh. Đó là nhân tố cơ bản và then chốt. Chỉ
có sự lãnh đạo của một Đảng trong sạch vững mạnh mới đưa cải cách bộ máy nhà
nước đi đến thành công.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn soi sáng
cho chúng ta xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân hôm nay.
Câu 8: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới hiện nay, liên hệ với địa phương, đơn vị ?
Câu 9: Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ? Thực trạng công tác cán bộ ở địa phương (đơn vị) đồng chí? Theo đồng chí phải có những biện pháp gì để làm tốt công tác cán bộ hiện nay?
Gợi ý đáp áp câu 8, 9: Chú ý: Tách
hai nội dung (cán bộ và công tác cán bộ).
Chủ tịch Hồ Chí
Minh thường nói: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”; cán bộ là vốn quý của cách
mạng, có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt
thì thành công, tức có lãi, không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức lỗ vốn. Vì
vậy, công tác cán bộ phải được xem là công việc gốc của Đảng, phải biết cách
lựa chọn, sử dụng và không ngừng bồi dưỡng cán bộ để cái vốn quý đó ngày càng
to lớn lên theo yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng.
Theo Hồ
Chí Minh, muốn lựa chọn được cán bộ phải có tiêu chuẩn. Người quan niệm tiêu
chuẩn không phải là cái gì không đổi, định ra một lần là đủ vì “cách mạng tiến lên mãi” nên
người cách mạng cũng phải “tiến lên mãi”, nếu không, sẽ trở thành lạc hậu bảo
thủ. Trong cuốn Đường cách mệnh, Người đã nêu những điểm chính về tư cách người
cách mạng. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Người lại nêu ra những tiêu chuẩn
để lựa chọn, bồi dưỡng, sử dụng, xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh đáp ứng yêu
cầu tình hình mới. Bước vào thời kỳ chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, trong nhiều bài nói và viết của mình, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ
chẳng những phải thạo về chính trị mà phải giỏi về chuyên môn, cán bộ lãnh đạo
trong ngành nào thì phải biết chuyên môn về ngành đó. Theo Hồ Chí Minh, có tiêu
chuẩn lựa chọn cán bộ rồi thì còn phải biết cách xem xét, đánh giá để tìm ra
những người đáp ứng được các tiêu chuẩn. Quan điểm xem xét, đánh giá cán bộ của
Người là: “Muốn xem xét, đánh giá cán bộ được đúng đắn,
chẳng những phải xem xét cách công tác của họ, mà còn phải xem xét cách sinh hoạt
của họ. Chẳng những xem xét cách viết, cách nói của họ, mà còn phải xem xét việc
làm của họ có đúng với lời nói, bài viết của họ hay không. Chẳng những xem xét
họ đối với ta thế nào, mà còn phải xem xét họ đối với người khác như thế nào,
phải biết ưu điểm của họ mà cũng phải biết khuyết điểm của họ, không nên chỉ
xem xét công việc của họ trong một lúc, mà phải xem cả công việc của họ từ trước
đến nay”. Người còn chỉ rõ: “Muốn biết rõ cán bộ thì người cán bộ lãnh đạo
trước hết phải sửa những khuyết điểm của chính mình, bởi vì mình càng ít khuyết
điểm thì xem xét, đánh giá cán bộ càng đúng”.
Hồ
Chí Minh coi việc sử dụng cán bộ là một nghệ thuật: “Đảng phải sử dụng cán bộ như người làm vườn
vun trồng những cây quý báu”. Phải bố trí cán bộ thích hợp, tuỳ tài mà
dùng người, họ có tài mà không dùng đúng cái tài của họ thì không được việc: “Thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo
đi rèn dao. Thành thử hai người đều lúng túng. Nếu biết tuỳ tài mà dùng người,
thì hai người đã thành công”. Người căn dặn cán bộ lãnh đạo phải thường
xuyên nghe, hỏi ý kiến cấp dưới, phải khiến cho cán bộ cấp dưới dám nói và đề
ra ý kiến; nếu ý kiến của họ không đúng thì nên dùng thái độ thân thiết giải
thích cho họ hiểu. Cán bộ lãnh đạo phải tạo cho cán bộ cấp dưới tuỳ cơ ứng biến
trong khi giải quyết các công tác. Những người lãnh đạo khéo thì tài nhỏ hoá
tài to, lãnh đạo không khéo thì tài to cũng hoá ra tài nhỏ. Khi đã bố trí cán
bộ đúng vị trí lại phải vì phẩm chất, tài năng, vì công việc, vì sự lớn mạnh
của tổ chức mà cất nhắc cán bộ, kiên quyết không vì yêu ghét, vì thân thích, vì
nể nang mà đề bạt cất nhắc cán bộ.
Để
đào tạo xây dựng được đội ngũ cán bộ tốt, Hồ Chí Minh coi “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Người yêu cầu phải xác định cho rõ huấn
luyện cho ai, ai huấn luyện, huấn luyện gì, tài liệu huấn luyện ra sao, nhưng
điều quan trọng nhất là xác định được mục đích của công tác huấn luyện đó làm
sao cho mỗi cán bộ nâng cao thêm được nhận thức tư tưởng, tu dưỡng đạo đức cách
mạng trong sạch hơn, tin tưởng hơn vào Đảng, vào nhân dân, vào tương lai của
cách mạng, của dân tộc. Chính mục đích của công tác huấn luyện sẽ quy định nội
dung, phương pháp, hình thức của công tác huấn luyện. Theo Hồ Chí Minh, việc đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ không chỉ dừng lại ở việc huấn luyện, dạy dỗ mà còn phải
tiếp tục trong cả quá trình bố trí, sử dụng cán bộ, quá trình hoạt động thực
tiễn của cán bộ. Đào tạo, sử dụng cán bộ là một quá trình nối tiếp, xen kẽ,
không tách rời, đứt đoạn, bởi vì sự phát triển không ngừng của cách mạng càng
đòi hỏi sự nâng cao không ngừng của mỗi cán bộ, đúng như lời Người đã nói: “Không phải vài ba tháng, hoặc vài ba năm mà
đào tạo được một cán bộ tốt. Cần phải đào tạo, huấn luyện lâu năm mới được”.
Hồ Chí
Minh đặc biệt chú trọng việc đào tạo thế hệ cách mạng cho đời sau. Người coi đó
là “một công việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Tư
tưởng chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng những người kế tục sự nghiệp cách mạng vừa
thể hiện tầm nhìn chiến lược của một nhà cách mạng “lo hôm nay và lo cho muôn đời sau”, vừa
thể hiện một tấm lòng ưu ái, một chủ nghĩa nhân văn cộng sản: “Tre già yêu lấy măng non”. Người
chỉ rõ Đảng phải có trách nhiệm giáo dục, tổ chức, hướng dẫn họ thành những
người kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân.
Sinh mệnh Đảng, tương lai của dân tộc phụ thuộc vào việc Đảng có quan tâm đúng
mức đến việc “trồng người” hay
không.
Trong
suốt quãng đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm
tới vấn đề phẩm chất đạo đức của người cán bộ. Để làm tròn nhiệm vụ của mình,
mỗi cán bộ đảng viên phải vừa có đức, vừa có tài, vừa có năng lực, vừa có phẩm
chất. Người nói: “Có tài phải có đức, có tài mà không có đức,
tham ô hủ hoá có hại cho cách mạng; có đức mà không có tài như ông bụt trong
chùa không có ích gì cho ai”. Theo Người, đạo đức là “cái gốc”, là “nền tảng”, là
cái “căn bản” của một
chiến sĩ cách mạng. Người có tài phải thường xuyên bồi dưỡng phẩm chất đạo đức
thì mới đem tài năng phục vụ đắc lực cho Đảng, cho dân. Đức là gốc, luôn làm
cho tài năng phát triển; người thực sự có đức bao giờ cũng khiêm tốn, chịu khó
học tập, phấn đấu nâng cao tài năng của mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ của
Đảng giao cho. Mỗi người đảng viên phải: trung với Đảng, hiếu với dân, vượt qua
mọi thử thách, giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ
không khuất phục, suốt đời vì dân, vì Đảng, vì cách mạng mà phục vụ. Việc tu
dưỡng đạo đức là việc làm thường xuyên trong suốt cuộc đời của người cán bộ,
đảng viên. Trường học tốt nhất cho việc rèn luyện phẩm chất đạo đức của cán bộ,
đảng viên là trong hoạt động thực tiễn, trong phong trào cách mạng của quần
chúng. Người căn dặn: không ai có thể chủ quan cho rằng đạo đức của mình là đủ,
cũng như tự mãn nghĩ rằng đạo đức của mình là có thừa. Mỗi cán bộ, đảng viên
phải học tập, phải rèn luyện đến già, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng
càng luyện càng trong. Hiện nay, Đảng ta đang tích cực triển khai thực hiện
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 Khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay” mà một trong những nội dung trọng tâm là “xây dựng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Thiết nghĩ các cấp uỷ
đảng và mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiên cứu, suy ngẫm những tư tưởng, quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ để vận dụng vào thực tiễn địa
phương, đơn vị mình, khắc phục những mặt hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ
hiện nay.
Tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc.
Đó là
những quan điểm cơ bản chỉ đạo chung vào công tác đổi mới và chỉnh đốn Đảng
trong tất cả các thời kỳ hoạt động của Đảng, đặc biệt trong thời kỳ cách mạng
hiện nay, thời kỳ Đảng tiếp tục cầm quyền lãnh đạo sự nghiệp phát triển đất
nước vì những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Việc tiến hành công tác cán bộ phải
gắn với nhiệm vụ chính trị của chi bộ. Trước hết, phải quan tâm xây dựng nhiệm
vụ chính trị đúng cho từng loại cán bộ, có xây dựng rõ nhiệm vụ chính trị, mỗi
người mới có thể phấn đấu để trở thành cán bộ tốt. Vì vậy, khi cán bộ thi hành
nhiệm vụ chính trị, người làm công tác cán bộ phải thường xuyên theo dõi kiểm
tra, giáo dục, giúp đỡ, bồi dưỡng cán bộ, tránh tình trạng làm công tác quản lý
theo kiểu quản lý chung, không biết người, biết việc của cán bộ.
Mặt khác, quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là môi trường
thực tiễn để rèn luyện, tuyển chọn và đào tạo cán bộ, nâng cao phẩm chất, kiến
thức, năng lực của đội ngũ cán bộ.
Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ không những gắn liền với nhiệm vụ chính trị mà còn gắn liền với tổ
chức; không có tổ chức coi như không có công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ.
Đảng ta đã khẳng định, tổ chức mạnh
khiến từng người mạnh và từng người mạnh khiến cả tổ chức mạnh. Do đó, muốn có
cán bộ tốt phải gắn công tác cán bộ với tổ chức, chăm lo xây dựng tổ chức. Phải
trên cơ sở nhiệm vụ chính trị mà xây dựng tổ chức, cần bao nhiêu cán bộ? Những
loại cán bộ gì? Tiêu chuẩn ra sao? Làm nhiệm vụ gì?... để căn cứ vào đó mới quy
hoạch, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ cho phù hợp. Có như
vậy mới làm cho cán bộ luôn thích ứng với tổ chức, làm điều kiện cho sự phát
triển cả tổ chức và cán bộ. Vì thế, để kết hợp công tác cán bộ với tổ chức phải
thực hiện nguyên tắc tổ chức: vì công việc mà bố trí cán bộ, chứ không phải vì
cán bộ mà sắp xếp công việc.
Cán bộ và phong trào cách mạng của
quần chúng có mối quan hệ biện chứng. Một mặt, chính từ phong trào cách mạng
của quần chúng sẽ sản sinh ra những cán bộ tốt. Đó là môi trường rèn luyện, thử
thách và sàng lọc cán bộ. Mặt khác, nếu quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ tốt thì cán bộ sẽ là người tuyên truyền cho tổ chức, duy trì phong trào
cách mạng của quần chúng.
Không thể có đội ngũ cán bộ tốt nếu
không xây dựng và duy trì được phong trào cách mạng của quần chúng. Không thể
có phong trào cách mạng sôi nổi, liên tục nếu không có đội ngũ cán bộ tốt. Do
đó, muốn có đội ngũ cán bộ tốt thì khi tiến hành công tác cán bộ, phải quan tâm
xây dựng phong trào cách mạng của quần chúng, thông qua phong trào để lựa chọn
cán bộ đưa vào đội ngũ quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt. Đồng thời
đào tạo rồi lại được rèn luyện, thử thách trong phong trào.
Chi bộ phải xem đây là trách nhiệm
trực tiếp của mình, phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và công tác
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt nói riêng. Đồng thời chi
bộ thực hiện đường lối, chính sách cán bộ thông qua các tổ chức của Đảng, chính
quyền và các đoàn thể nhân dân. Phải tuân thủ theo đúng quy trình, thủ tục,
pháp luật của Nhà nước, điều lệ của các đoàn thể và các tổ chức xã hội, phân
cấp quản lý tốt đội ngũ cán bộ mình phụ trách. Từ đó, có sự tính toán chủ động
trong việc quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tốt hơn.
Như vậy, có thực hiện đầy đủ các
quan điểm chỉ đạo cơ bản trên đây mới thật sự tạo ra một đội ngũ cán bộ vững
mạnh về mọi mặt theo tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ mới.
- Tiếp
tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng.
- Tăng cường chất lượng các khâu của
công tác cán bộ.
- Từng cán bộ, công chức phải tự
giác học tập, rèn luyện gắn liền với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là
nâng cao chất lượng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ.
- Tăng cường công tác tuyền truyền,
giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của Ngành, nâng cao
nhận thức cho đội ngũ cán bộ, viên chức.
- Đổi mới nội dung, phương thức nâng
cao hiệu quả của công tác chính trị tư tưởng; kết hợp giữa “xây” và “chống”,
lấy “xây” làm chính. Thường xuyên giáo dục CBVCLĐ thực hiện tốt chuẩn mực đạo
đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động.
- Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 15/4/2011 của
Bộ Chính trị gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn
đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, trước mắt là học tập chủ đề năm 2015
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm;
gắn bó với nhân dân; đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”.
- Thực quy chế dân chủ theo Nghị
định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong
hoạt động của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập; công khai các hoạt
động về tuyển dụng, bố trí, quy hoạch, đào tạo để cán bộ, viên chức phấn đấu.
- Tăng cường tổ chức hội thảo kỹ
thuật nội bộ, phản biện các vấn đề liên quan đến chất lượng kỹ thuật và hiệu
quả thi công các đề án nhằm nâng cao kỹ năng làm việc cho cán bộ kỹ thuật, quản
lý. Qua đó, lựa chọn những người có năng lực bố trí làm làm công tác quản lý.
- Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề cho đội ngũ kỹ thuật, chủ nhiệm đề án, trình độ lý luận
chính trị cho cán bộ, viên chức. Liên hệ với Trường Chính trị tỉnh Bình Định và
các cơ quan liên quan tại địa phương trong khu vực hoạt động để tạo điều kiện
cho cán bộ, viên chức tham gia học các lớp Cao cấp, Trung cấp lý luận chính
trị, bồi dưỡng đối tượng phát triển Đảng.
- Rà soát, đánh giá lại chất lượng
đội ngũ cán bộ, viên chức để kiện toàn tổ chức bộ máy; thực hiện tinh giản biên
chế theo Nghị định 108/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ về tinh giản biên
chế. Ưu tiên tinh giản đối với cán bộ viên chức có thâm niên công tác nhưng sức
khỏe yếu, trực tiếp sản xuất. Đồng thời kiên quyết đưa ra khỏi đơn vị những
viên chức có đạo đức tác phong kém, chây lười, ngại khó khăn gian khổ, năng lực
hạn chế, ý thức chấp hành kỷ luật lao động không cao, không hoàn thành nhiệm
vụ.
- Thực hiện các giải pháp hút cán bộ
kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ để
khuyến khích những nhân tố tích cực, tạo môi trường lành mạnh, điều
kiện thuận lợi cho cán bộ, viên chức làm việc và học tập. Xây dựng quy chế tiếp nhận, tuyển dụng viên chức
và hợp đồng lao động phù hợp với thực tế; hoàn thiện Đề án vị trí việc làm và
cơ cấu ngạch viên chức để bố trí, sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ, viên chức. Trả
lương theo hiệu quả công việc để khuyến khích sự
sáng tạo, đề cao trách nhiệm cá nhân đối với tập thể.
- Chú trọng đến năng lực, phẩm chất
đạo đức của người làm công tác cán bộ: phải công tâm, trung thực, trong sáng,
có kinh nghiệm làm công tác cán bộ, dân chủ, công khai, công bằng, thống nhất
trong lựa chọn, đề bạt, bổ nhiệm và thực hiện chính sách cán bộ. Tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát cán bộ và công tác cán bộ hàng năm.
- Đề nghị Nhà nước sớm triển khai
thực hiện tinh giản biên chế đối với cán bộ, viên chức, bố trí kinh phí thường
xuyên cho các đơn vị sự nghiệp công lập để giải quyết chế độ cho cán bộ, viên
chức theo Nghị định 108/2014/NĐ-CP.
- Phát huy mọi nguồn lực để đổi mới
thiết bị, công nghệ đủ khả năng cạnh tranh trong cơ chế thị trường; quan tâm
đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ… tập trung cho chuyên ngành còn
thiếu và yếu.
- Bản thân cán bộ, viên chức phải
nêu cao tinh thần tự học tập dưới nhiều hình thức để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Các cán bộ, viên chức có năng lực nên truyền đạt kinh nghiệm, giúp đỡ đồng
nghiệp, nhằm mục tiêu chung đưa Liên đoàn phát triển bền vững. Cần tiếp tục
triển khai cho toàn thể cán bộ, công nhân viên chức tiếp tục học tập và vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh theo tinh Nghị quyết 03 của Bộ Chính trị năm 2011;
tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, thực hiện nghiêm túc tuyên ngôn
“Minh bạch - Chuyên nghiệp - Liêm chính - Đổi mới”. Tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho đội ngũ công chức trẻ tuổi, có năng lực, đạo đức phẩm chất tốt được tiếp
cận và nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức quản lý Nhà nước, chuyên
môn nghiệp vụ, thông qua nhiều loại hình đào tạo khác nhau phù hợp với công
việc, điều kiện và thời gian.
- Đánh giá cán bộ cần dựa vào tiêu
chuẩn cụ thể của từng chức danh, lấy hiệu quả công việc làm căn cứ hàng đầu.
Công tác đánh giá cán bộ phải gắn với công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, nhất là chính sách sử dụng và đãi ngộ cán bộ.
- Để đảm bảo cho cán bộ, công chức
thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, tránh những hiện tượng tiêu cực xảy ra thì Nhà
nước phải có chính sách ưu đãi về tiền lương làm sao cho cán bộ, công chức đủ
tái sản xuất sức lao động. Được như thế mới làm họ yên tâm công tác, nhất là
tránh được hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật; thực hiện tốt chính sách
“chiêu hiền đãi sĩ” nhằm xây dựng đơn vị ngày càng vững mạnh, phát triển./.
HỎI VÀ ĐÁP